Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Bệnh u máu có đáng lo?

Bệnh u máu là tình trạng phát sinh 1 khối dạng u do sự nâng cao sinh quá mức của mạch máu gây nên. Khối u có đặc điểm như 1 khối u thông thường nhưng chúng có thêm 1 đặc điểm đặc trưng là chứa đầy mạch máu và máu. Khác với các khối u phần mềm khác, thường to lên và phát triển theo thời gian, u máu thì đa phần lành tính và tự khỏi.

Bản chất của khối u là sự nâng cao sinh của mạch máu, chính xác là sự nâng cao sinh của các tế bào nội môi gây nên. Vì là khối u máu nên nếu như như khối u máu vỡ đương nhiên mạch máu sẽ bị tổn thương và máu chảy ra.

Đặc hữu trẻ sơ sinh

Bệnh u máu là bệnh thường có hiện tượng ở trẻ sơ sinh. Có khoảng 30% số bệnh nhân là trẻ trong tháng đầu sau sinh. Còn lại đa phần có hiện tượng tại giai đoạn 1 tuổi. Một phần nhỏ xuất hiện tại tuổi trưởng thành.

Bệnh u máu có đặc tính là mang đầy đủ các tính chất của 1 khối u ngoại trừ một tính chất, đó là khối u rất lành tính và đa phần tự teo đi trong các giai đoạn vào sau. Khác với các khối u phần mềm khác, thường to lên và phát triển theo thời gian. Đến một giai đoạn nhất định chúng có thể chuyển thành ác tính. Còn u máu đa phần lành tính và tự khỏi.

U máu có ba dạng căn bản là u mao mạch, u dạng hang và u hỗn hợp. Chúng có thể có hiện tượng tại bất kỳ đâu trong cơ thể miễn là tại vị trí đó có nhiều mạch máu. Nhưng thường thì u máu xuất hiện tại da là chủ yếu. Chỉ 1 phần nhỏ có hiện tượng trong nội tạng.

Thường thường, người ta thấy u máu xuất hiện ở mặt, đầu, cổ, mông, đùi. Và thường là tại trẻ em. Chỉ 1 số ít xuất hiện ở gan, hầu họng, tim, cột sống. Những dạng này chiếm tỷ lệ vô cùng ít và thường gặp ở người trưởng thành. Đa phần u máu nội tạng xuất hiện tại gan.

Dấu hiệu tiếp nhân biết

U máu là 1 bệnh thường gặp ở da nên dấu hiệu nhận ra rất đơn giản. Chúng có biểu hiện tại 3 cấp độ. Cấp độ thứ nhất là dạng nhẹ. Dấu hiệu là những vết trảo đổi màu sắc mà thường là đỏ, đỏ tím hoặc phớt xanh. Ở giai đoạn này chúng ít lúc tạo thành u, cục hay khối. Đa phần chúng bằng phẳng như 1 cái “bớt trẻ em”.

Cấp độ thứ 2 là dạng trung bình. Ở giai đoạn này, u máu trở thành một khối u thực sự. Nghĩa là chúng gồ lên, nổi lên hoặc đội da lên thành một khối có hình dạng, kích thước rõ ràng. Tất nhiên, chúng vẫn mang màu sắc như cũ. Đó là màu của máu trong khối u.

Cấp độ thứ ba giống dạng trung bình nhưng biểu hiện kèm theo lúc khối u vỡ ra hay biến chứng. Thường là sự chảy máu nếu như như khối u ngoài da, vỡ ra, loét nếu như khối u tại sâu trong phần mềm. Ngoài ra là những dấu hiệu đặc thù cơ quan mà ở đó khối u máu to lên, chèn ép vào tạng và cơ quan chủ đích.

U máu thường ít khi gây ra biến chứng. Vì chúng tự biến mất đi lúc trưởng thành. Ít trường hợp tồn tại và phát triển lớn lên. Nhưng cũng có 1 số trường hợp không diễn ra như vậy. Khi đó chúng có thể gây ra biến chứng.

Biến chứng của u máu nói chung ít nguy hiểm và rất ít lúc xảy ra. Thường thì người ta không đặt vấn đề biến chứng trong bệnh này. Trong 1 số trường hợp, xin lưu ý là rất hãn hữu, có thể gây nguy hiểm. Chẳng hạn như u máu tại hầu họng có thể gây ra khó thở lúc chúng quá to, u máu tại tim có thể làm giảm lưu thông tuần hoàn qua tim do u máu chiếm chỗ, u máu trong cột sống có thể làm yếu xương, u máu tại mắt có thể làm suy yếu thị lực, u máu trong gan có thể làm tắc một vài vi quản mật.

Với những u máu ở ngoài da, không khó để phát hiện ra bệnh. Mặc dù thỉnh thoảng cũng hay bị chẩn đoán nhầm với những vết xước ngoài da hay những chấn thương phần mềm. Nhưng với u máu trong sâu nội tạng thì cần được có những xét nghiệm chuyên biệt. Ba xét nghiệm hay được phối hợp thêm để chẩn đoán là siêu âm, chụp cắt lớp vi tính (CT) và chụp công hưởng từ (MRI).

Bệnh u máu có đáng lo? 1 U máu thường có hiện tượng ở mặt và cổ.

Điều trị thế nào?

Như trên đã nói, u máu đa phần lành tính và không cần điều trị đặc biệt, tự khắc chúng sẽ teo và biến mất. Nhưng cũng có những u máu không nhỏ đi mà tồn tại như 1 khối u thực sự. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lý và thẩm mỹ của người bệnh. Điều trị khi này thực sự hữu ích.

Trong giai đoạn đầu, u máu sẽ nhỏ lại 1 cách đáng kể với các thuốc điều trị. Các thuốc có thể áp dụng là corticoid (có dạng uống, dạng bôi và dạng tiêm trực tiếp về khối u), hóa chất chống ung thư, thuốc chẹn beta.

Khi việc dùng thuốc không có kết quả hoặc không thuyên giảm như hy vọng thì phẫu thuật được xem là một biện pháp triệt để. Có hai phương pháp căn bản là phẫu thuật bằng lase và cắt bỏ. Áp dụng theo phương pháp nào là tùy vào chiến lược điều trị của từng người và tùy về vị trí xuất hiện khối u máu. Thường thì lase ưu tiên sử dụng tại những trường hợp u máu ở nông, bề mặt và những vị trí thẩm mỹ nhạy cảm như mắt, môi, mũi, tai, mặt. Nói chung, các can thiệp trong những trường hợp này thường không quá phức tạp. Rất ít khi u máu nội tạng phải can thiệp điều trị bằng phẫu thuật.            

  Bs. Nguyễn Huyền Trang

0 nhận xét:

Đăng nhận xét