This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Đi bộ có lợi cho sức khỏe giống như chạy

Các nhà nghiên cứu tại Mỹ cho biết đi bộ cũng có ích lợi như vậy như chạy trong việc giảm nguy cơ huyết áp cao, cholesterol và bệnh tiểu đường.

 

Đi bộ có lợi cho sức khỏe giống như chạy 1
Tác kém chất lượng nghiên cứu, Paul T. Williams, Viện Khoa học cuộc sống ở Berkeley, California, và các đồng nghiệp đã phân tích 33.060 người chạy bộ và 15.045 người đi bộ trong 6 năm.

Nghiên cứu cho thấy đi bộ với cường độ vừa phải và chạy với cường độ mạnh có tác dụng như vậy trong việc giảm nguy cơ bị huyết áp cao, cholesterol cao, tiểu đường và bệnh tim mạch vành.

Tiến sĩ Williams nói “Đi bộ và chạy mang lại 1 thử nghiệm mới mẻ về lợi ích của việc đi bộ và chạy bởi vì chúng tác động đến các nhóm cơ như nhau và các hoạt động tương tự cũng được thực hiện tại những cường độ khác nhau”.

Tuy nhiên, không giống như các nghiên cứu trước đây, các nhà nghiên cứu đánh mức chi phí đi bộ và chạy theo khoảng cách mà không theo thời gian.

“Chạy và đi bộ thường xuyên sẽ rất có lợi cho sức khỏe. Năng lượng tiêu tốn là như nhau bởi vậy lợi ích cho sức khỏe cũng vậy”, tiến sĩ Williams nói thêm.

Kết quả được công bố trên tạp chí The American Heart Association journal Arteriosclerosis, Thrombosis and Vascular Biology.

 

Theo

Dân trí/Upi

Bí quyết “bách niên giai lão”

“Bách niên giai lão” nghĩa là sống tròn tuổi 100, song cũng có những trường hợp siêu cao tuổi khi mà tuổi thọ của họ có thể đạt đến ngưỡng 110 tuổi hoặc cao hơn. Ðể có được sự trường thọ tột bậc này quả là một điều không dễ dàng. Chúng ta đều đã nghe nói tới những trường hợp siêu cao tuổi nhưng chúng ta không biết chắc chắn họ đã có những bí quyết gì để có thể sống khỏe mạnh tới thế. Bài viết dưới đây là cái nhìn sự thật đằng sau những trường hợp siêu cao tuổi, cũng như những lời “bật mí” nhằm đem đến cho độc chất lượng kém sự hiểu biết nhất định vào chính sách rèn luyện để sống lâu.

Cụ ông Shigechiyo Izumi: 120 tuổi

Bí quyết “bách niên giai lão” 1

Cụ ông Shigechiyo Izumi sinh năm 1865 ở quần đảo Amami (Nhật Bản). Bí quyết sống khỏe theo như lời cụ nói là uống Shōchū (thứ rượu truyền thống của người Nhật được chưng cất từ lúa mạch hoặc khoai lang), đây cũng là thứ thực phẩm hằng ngày của cụ. Trong rượu Shōchū có thành phần urokinase, một loại enzym chống đông máu cực kỳ bổ ích, có tác dụng ngăn ngừa bệnh tim mạch và đột qụy. Các cuộc nghiên cứu vào con người đã khám phá ra rằng, bằng việc hấp thụ rượu Shōchū sẽ có khả năng để sản sinh ra 1 lượng lớn urokinase - nhiều hơn trong rượu thường và rượu sake. Trong rượu Shōchū có rất ít calori và các chiết xuất khác, do vậy nó hầu như không tạo ra tác dụng phụ.

Cụ bà Jeanne Louise Calment (Pháp): 122 tuổi

Cụ bà Jeanne Louise Calment sinh năm 1875 ở Arles (Pháp). Bí quyết sống khỏe theo như lời cụ nói là sử dụng dầu ôliu cho các món ăn hằng ngày. Cụ được thừa tiếp nhân là người cao tuổi nhất hành tinh tính tới thời điểm cụ qua đời. Trong nhiều tài liệu, người ta thấy cụ bà Calment duy trì sự trường thọ và sức khỏe của mình bằng cách sử dụng dầu ôliu cho rất nhiều các món ăn cũng như lấy dầu ôliu phết lên cơ thể và mát-xa da hằng ngày. Có một bằng chứng y học cho thấy rằng, dầu ôliu có những lợi ích tim mạch rất khả quan. Trong dầu ôliu có tồn ở các chất béo không bão hòa đơn, đáng chú ý là acid oleic. Các dữ liệu xa hơn còn cho thấy rằng, dầu ôliu có khả năng chống viêm sưng, chống huyết áp (phòng ngừa chứng đông máu) và chống ôxy hóa. Ngoài ra, dầu ôliu được cho là làm nâng cao cường hệ miễn dịch.

Cụ bà Marie-Louise Meilleur (Canada): 117 tuổi

Bí quyết “bách niên giai lão” 2

Cụ bà Marie-Louise Meilleur sinh năm 1880 ở cộng đồng dân cư Kamouraska, Quebec (Canada). Bí quyết sống khỏe theo như lời cụ là sử dụng muối. Trái với cụ ông Shigechiyo Izumi, cụ Marie chưa bao giờ uống bất kỳ một giọt rượu nào và không ăn thịt. Thực chất thì khoa học nói rằng, dư thừa muối có thể khiến con người mắc các chứng bệnh như nâng cao huyết áp, loãng xương, ung thư dạ dày, viêm loét và là nguyên do làm gia nâng cao rủi ro của bệnh tim mạch và đột quỵ. Tuy nhiên, Viện Muối Quốc tế khẳng định rằng, muối không chỉ hoàn toàn là xấu mà với một số người nó lại là chìa khóa khiến gia nâng cao thêm tuổi thọ.

Cụ ông Emiliano Mercado del Toro (Puerto Rico): 115 tuổi

Bí quyết “bách niên giai lão” 3

Cụ ông Emiliano Mercado del Toro sinh năm 1891 tại cộng đồng dân cư Cabo Rojo (Puerto Rico). Bí quyết sống khỏe theo như lời cụ nói là sử dụng món Funche (một thứ ngô nấu chung với cá tuyết và sữa tươi). Cụ Emiliano Mercado del Toro phát triển thành người cao tuổi nhất toàn cầu được ghi tiếp nhân về ngày 11/12/2006. Được công nhận là cựu binh quân đội cao niên nhất toàn cầu ngay khi còn đang sống, cụ Emiliano Mercado del Toro cũng được người đời nhớ tới bởi khiếu hài hước và tình yêu phụ nữ. Trong suốt cuộc đời mình, cụ Emiliano liên tục ăn món Funche, 1 thứ đồ ăn truyền thống của người Peurto Ricao. Mặc dù món Funche vẫn chưa được nghiên cứu chính thức về lợi ích nó, nhưng một trong các thành phần then chốt là sữa tươi có chứa nhiều loại khoáng chất và vitamin quan trọng cho sức khỏe. Trong sữa rất giàu canxi và được nâng cao cường với vitamin D, 2 chất này làm ngăn ngừa căn bệnh loãng xương. Các cuộc nghiên cứu xa hơn đã chỉ ra rằng, sản phẩm từ sữa đã làm giảm thiểu nguy cơ gây bệnh ung thư ruột kết và khi kết hợp với các loại trái cây và rau củ quả khác, nó đã làm giảm chứng nâng cao huyết áp. Thậm chí, sữa còn ngừa sâu răng bằng cách làm giảm axít trong miệng.

Cụ ông John Ingram McMorran (Mỹ): 113 tuổi

Cụ ông John Ingram McMorran sinh năm 1889 ở thị trấn Goodland (Michigan, Mỹ). Bí quyết sống khỏe theo như lời cụ nói là uống cà phê. Cụ John McMorran là người cao tuổi nhất nước Mỹ. Trong suốt 11 thập niên, huyết áp của cụ John vẫn ổn định, bất chấp lời khuyên của y học hiện đại về sự trường thọ, cụ John vẫn đưa ra một công thức độc đáo làm nên sự trường thọ của mình: “Tôi uống 1 tách cà phê trước mỗi bữa ăn và tránh xa thứ rượu Whisky rẻ tiền”. Trong thực tế, cà phê  đã đem đến 1 số ích lợi sức khỏe đáng ghi nhận. Cà phê có các đặc tính chống ôxy hóa, hạn chế rủi ro phát triển bệnh ung thư gan và ruột kết so với những người không uống. Cà phê cũng giúp bảo vệ cơ thể chống lại bệnh Parkinson và đồng thời cà phê cũng có tác dụng với các vận động viên như là chất kích thích thần kinh.          

T.HẢI (Theo ASK MEN, 1/2013)

Tính hai mặt của xét nghiệm sinh học phân tử

Từ những năm 80 của thế kỷ trước, sự thành công của  “kỹ thuật tiếp nhân dạng” và “giải trình tự gen” đã tạo ra bước  nhảy vọt cho việc tổng hợp chuỗi gen PCR (polymerase chain reaction). Kỹ thuật này đã giúp cho việc xác định nguyên do gây bệnh được nhanh chóng và chuẩn xác cũng như giúp cho quá trình theo dõi, điều trị hiệu quả.

Xét nghiệm sinh học phân tử là gì?

Phản ứng tổng hợp PCR có khoảng 20 - 35 vòng, sau mỗi vòng thì DNA được khuếch đại lên theo hệ số mũ. Cho nên phản ứng PCR bản chất là phản ứng “nhân  bản, khuếch đại các đoạn DNA”. Năm 1983, Kary Mullis đã nghiên cứu thành công kỹ thuật  tổng hợp PCR giúp cho việc nhận diện vi sinh vật gây bệnh một cách nhanh chóng. Đây là kỹ thuật xét nghiệm sinh học phân tử. Xét nghiệm này thoạt đầu trả lời được câu hỏi định tính (Trong mẫu thử có vi sinh đó không?).

Năm 1991, các nhà nghiên cứu tìm được cơ chế hoạt động theo chu trình từ đầu 5 tới đầu 3 của  DNA - polymerase, từ đó cho phép việc ghi tín hiệu trực tiếp, tức thời các quy trình diễn ra trong phản ứng tổng hợp PCR. Kỹ thuật ghi tín hiệu này có thuật ngữ là “Real - time PCR”. Phản ứng trong “Real - time PCR” cao hơn trong PCR khoảng 50 - 60 vòng. So sánh số vòng xảy ra trong mẫu thử gấp bao nhiêu lần trong mẫu chuẩn ta sẽ tính được lượng vi sinh trong mẫu thử. Như vậy kỹ thuật “Real  - time PCR” sẽ trả lời được boăn khoăn định lượng (Có bao nhiêu vi sinh trong mẫu thử?).

Vi sinh phải có mặt với một số lượng đủ to mới gây ra được bệnh. Phản ứng tổng hợp PCR cho phép ta nhận diện sự có mặt của vi sinh và phản ứng “Real - time PCR” cho ta định lượng được số vi sinh trong mẫu thử, cho nên sẽ giúp cho việc chẩn đoán nguyên do gây bệnh.

Khi sử dụng 1 liệu pháp nào đó để tiêu diệt vi sinh gây bệnh thì không bao giờ tiêu diệt hết 100% vi sinh mà chỉ làm giảm vi sinhh tới mức tối thiểu. Dùng phản ứng tổng hợp PCR và kỹ thuật “Real - time PCR” sẽ cho phép ta định tính và định lượng vi sinh ở từng thời điểm trong sau điều trị tức là cho phép đánh mức giá kết quả điều trị.

Tính 2 mặt của xét nghiệm sinh học phân tử 1 Làm xét nghiệm sinh học.

Những đề nghị khó tính vào kỹ thuật và sự sai sót hạn chế

Xét nghiệm sinh học phân tử phải được thực hiện trong điều kiện kỹ thuật rất khắt khe, nếu như không thực hiện đúng các điều kiện khó tính ấy thì sẽ có sai sót hạn chế:

Trong kỹ thuật tổng hợp PCR: Nếu nồng độ nguyên liệu không thích hợp, việc điều nhiệt tức thời không chín xác theo từng giai đoạn, thì phản ứng tổng hợp PCR sẽ có hiệu suất rất thấp, thậm chí có thể không xảy ra. Kết quả là phản ứng PCR âm tính, mặc dù các triệu chứng nhiễm vi sinh trên lâm sàng rất rõ. Nếu vô ý để diễn ra “sự nhiễm chéo” giữa các mẫu thử thì sẽ có phản ứng PCR dương tính, mặc dù các triệu chứng nhiễm khuẩn trên lâm sàng rất mờ nhạt.

Về kỹ thuật “Real - time PCR”: Ngoài một số chi tiết như kỹ thuật tổng hợp PCR thì cần thiết nhất là có thêm 1 thiết bị ghi tín hiệu khi phản ứng tổng hợp PCR xảy ra. So sánh số vòng của mẫu thử và số vòng của mẫu chuẩn đạt được trong cùng thời gian xảy ra phản ứng, sẽ tính được số vòng mẫu thử  gấp bao nhiêu lần số vòng mẫu chuẩn; từ đó tính được nồng độ DNA của mẫu thử. Như vậy, trong giai đoạn này đòi hỏi phải có một mẫu chuẩn rất tốt để so sánh.

Muốn định lượng mẫu thử  đúng thì mẫu chuẩn phải chính xác. Để loại trừ sai sót gây ra, thường phải so sánh một mẫu thử với 5 mẫu chuẩn liên tiếp có nồng độ chênh lệch nhau và bao giờ các kết quả của mẫu thử sau 5 lần so với các mẫu chuẩn ấy không có sự chênh lệch nhau quá giới hạn cho phép thì mới chấp nhận. Điều này đòi hỏi cả kỹ thuật lẫn sự kiên nhẫn cao. Không làm được điều này thì kết quả sẽ sai lạc.

Có 2 hạn chế trong xét nghiệm sinh học phân tử:

Mẫu chuẩn với mẫu thử chỉ đúng trong phạm vi nồng độ giới hạn, chứ không chín xác với mọi nồng độ. Do đó, duy nhất thể định lượng được mẫu thử trong phạm vi nồng độ giới hạn, ngoài khoảng đó ra, sẽ không chính xác.

Vi sinh gây bệnh thì hầu hết loại, trong khi đó ta mới duy nhất bản “giải trình tự gen” của 1 số ít vi sinh. Do đó không phải bệnh do vi sinh nào cũng có thể xét nghiệm bằng kỹ thuật xét nghiệm sinh học phân tử được.

Như vậy, xét nghiệm sinh học phân tử tuy rất hiện đại song vẫn có thể có những giảm thiểu và có thể có sai sót do chính việc thực hiện của con người.

Tương lai và sự ứng dụng

Có hầu hết vi sinh gây bệnh nhất là là các chủng mới như HIV, viêm gan b  (HBV), cúm A/H5N1, cúm A/H1N1, SARS..., mà ví dụ dùng phương pháp xét nghiệm vi sinh cổ điển sẽ không thể xác định hay đáp ứng chậm thì phương pháp xét nghiệm sinh học phân tử sẽ giải quyết được và đáp ứng nhanh hơn, nhờ đó mà giúp cho việc chẩn đoán cũng như đánh mức chi phí hiệu quả điều trị 1 số bệnh kịp thời.

Sự đánh tráo môi trường, lối sống cộng với sự trảo đổi của  các tác nhân gây bệnh, làm cho việc giải thích bệnh sinh không đơn giản, mà cần phải giải thích bằng mối tương tác phức tạp của nhiều tác nhân. Chẳng hạn, trong bệnh ung thư thì đâu là sự tàn phá do nhiễm khuẩn, đâu là sự suy kiệt do các hội chứng rối loạn chuyển hóa dai dẳng và đâu là tác động trường diễn của các chất độc trong tự nhiên... Thông qua kỹ thuật tổng hợp PCR và “Real - time PCR” có thể trả lời được các boăn khoăn hóc búa trên một cách lý thú và đáng tin cậy.

Tuy nhiên, xét nghiệm sinh học phân tử là kỹ thuật cao, tốn kém và cũng có mặt giảm thiểu chỉ nên sử dụng lúc các kỹ thuật cổ điển đáp ứng thấp. Các cửa hàng khám chữa bệnh chỉ nên sắm các thiết bị này lúc hội đủ các điều kiện nhân lực, kỹ thuật  với mục đích thiết thực. Người bệnh không nên lạm dụng các xét nghiệm theo ý thích mà tuân thủ sự chỉ dẫn của thầy thuốc.       

 

  DSKII. Dùi Văn Uy

Đi bộ thế nào có lợi cho sức khỏe?

Đi bộ có lợi cho sức khỏe, đó là lời khuyên của các thầy thuốc, Nhưng lúc hỏi: “như thế nào?”, mỗi người trả lời 1 khác.

Ngay trên báo chí cũng vậy, chỗ thì viết: phải đi nhanh mới có tác dụng giảm cân; chỗ viết: người béo phì không nên đi bộ nhanh... làm cho người đọc hoang mang, không biết thông tin nào đúng, thông tin nào sai.

Lợi ích của đi bộ: mọi hình thức vận động đều làm nâng cao sự lưu thông khí huyết. Đi bộ nói chung là 1 phương pháp tập luyện phù hợp với nhiều người (từ trẻ em đến cụ già, người ốm, người khỏe, người mang thai, người béo phì...). Mỗi người căn cứ về sức khỏe và hiện trạng của mình mà chọn cách đi bộ cho phù hợp, sẽ có tác dụng:

 - Tăng mật độ xương, chống loãng xương, kích thích tiết chất chống thoái hóa khớp.

- Tăng độ dẻo dai, rắn chắc của gân cốt, cơ bắp.

- Kích thích tiêu hóa giúp ăn ngon ngủ sâu; chống táo bón.

- Tăng cường chuyển hóa, chống bệnh mỡ máu cao, giảm cholesterone xấu, nâng cao cholesterone tốt.

- Tăng tuần hoàn máu, tăng dẻo dai thành mạch, điều hòa huyết áp, tăng chỉ số thông minh (IQ).

- Giảm nguy cơ các bệnh: tim mạch (cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, xuất huyết não, đột quỵ); đái tháo đường; chứng béo phì.  

- Giảm stress.

- Chống suy giảm sinh dục (rối loạn cương, lãnh cảm nữ).

- Chống trầm cảm (do tăng tiết Dopamin và Serotonin).

- Tăng sức đề kháng, giảm cảm cúm, nhiễm trùng; giảm nguy cơ ung thư (vú, tử cung, tuyến tiền liệt, đại tràng); giảm đau nhức (cơ, xương).

 - Chống lão hóa, chống teo não, chống suy giảm trí nhớ ở người cao tuổi.      

 - Chống thói quen lười vận động (nhất là thanh , thiếu niên hiện nay).

- Bổ sung vitamin D3 cho cơ thể (khi phơi nắng trên 10 phút cơ thể sẽ sản sinh 10.000 UI). 

 Tùy theo cách đi mà có các ích lợi cụ thể khác nhau. Ví dụ:

- Người mang thai 3 tháng cuối, nên đi bộ chậm, bước vừa phải không gắng sức, thời gian đi bộ mỗi ngày khoảng 30 phút (có thể chia làm hai lần) sẽ có lợi cho cả mẹ và con (chống nâng cao cân nhiều, chống sản giật, đái tháo đường, táo bón, giúp dễ đẻ).

- Người béo phì muốn giảm cân, nên đi bộ chậm sẽ tránh được nguy cơ viêm khớp, chấn thương khớp, đốt nhiều mỡ thừa hơn. Thời gian đi bộ thấp nhất 30 phút/ngày.

- Trẻ em đi học (từ lớp 1 trở lên, ví dụ đoạn đường từ nhà tới trường dưới 2.000m) nên cho đi bộ. Ngày đầu, người to nên đi kèm để hướng dẫn cách đi (không nhanh quá, chậm quá, không được chạy nhảy). Tạo cho các em thói quen tự rèn luyện(không ỷ lại về người to chở đi học). Làm cho khí huyết lưu thông, cơ bắp rắn chắc, lúc học dễ tiếp thu hơn. Cơ thể được tiếp xúc với ánh nắng, tạo ra Vitamin D3 chống còi xương.

Đi bộ thế nào có lợi cho sức khỏe? 1 Khi đi bộ, người tập cần mang trang phục gọn gàng, mang giày đế bằng...

Các cách đi bộ:

- Đi bách bộ: người làm việc nhà, hoặc sinh hoạt trong nhà, người bị bệnh tim mạch (nên đi trong nhà); trẻ em tới trường.

- Đi vừa phải, chân bước  tay vung ngang ngực (như bộ đội duyệt binh) cho người sức khỏe bình thường, hoặc bệnh nhẹ.

- Đi chậm (người: béo phì, mang thai 3 tháng cuối, ốm nặng mới hồi phục).

- Đi nhanh, sải chân dài, chân bước tay vung. Tốc độ 80 - 100 bước/phút. Năng lượng tiêu hao 270kcal/giờ. Nhu cầu oxy: 56 l/giờ (người khỏe dư cân).

- Leo cầu thang (người khỏe làm việc trong nhà nhiều tầng).

- Đi trong máy tập.

Môi trường đi bộ cần trong lành, không nắng gắt.

Thời khắc đi bộ ngoài trời:

- Buổi sáng: sau lúc mặt trời mọc 30 phút đến 10 giờ sáng

- Buổi chiều:  16 - 18 giờ (ngày trời râm có thể đi bộ từ 15 giờ).

(Đi bộ về các thời điểm nói trên là rất tốt nhất, nhưng duy nhất thể thực hiện được với người đã nghỉ hưu, người làm nghề tự do, còn các đối tượng khác lại trùng với giờ làm việc buổi sáng).

Thời gian đi bộ :  tối thiểu  30 phút, tối đa 60 phút.

Môi trường đi bộ cần trong lành, không nắng gắt.

Người đi bộ cần mang: trang phục gọn gàng, đi giày vải đế bằng, đeo kính râm, đội mũ lưỡi trai. Mùa rét: mặc quần áo đủ ấm, không bó sát người. Mùa nóng: mặc quần đùi, áo 3 lỗ. Không sử dụng kem chống nắng, không mặc áo chống nắng.

Những trường hợp không nên đi bộ tập luyện: đó là những người đang trong tình trạng hoặc có dấu hiệu: chóng mặt, khó thở, rối loạn tuần hoàn não nặng, thoát vị đĩa đệm, viêm khớp, thoái hóa khớp, lỏng khớp, viêm gót chân, bàn chân, viêm tắc động, tĩnh mạch, giãn tĩnh mạch chân, phù hai chi dưới, đau cơ, teo cơ, mệt mỏi, hành kinh, thai đạp mạnh, hen suyễn, đau mắt, nhức đầu nặng...

Việc không nên làm khi đi bộ tập luyện:

- Không nói chuyện (hại sức khỏe, tổn chân khí).

- Không suy nghĩ lung tung, mà phải tập trung chú ý về hơi thở và bước đi.

- Không dắt trẻ em  hoặc dắt tay mgười khác.

- Không cầm thứ gì tại tay (nếu mang theo ô hoặc áo mưa, nước uống... thì cho về túi có quai dài đeo trên vai).

DS. TRẦN XU N THUYẾT

Ðiều trị teo lõm nửa mặt bằng bơm mỡ tự thân

Từ khi 5 tuổi, chị M. luôn mặc cảm với khuôn mặt dị dạng teo tóp của mình do một căn bệnh quái ác gây nên mà y học gọi là hội chứng Parry-Romberg. Giữa lúc tưởng chừng như tuyệt vọng vì đã chữa chạy khắp nơi bằng nhiều cách mà vẫn không điều trị được dứt điểm, chị M. đã được các bác sĩ Khoa Phẫu thuật tạo hình - hàm mặt, BV Việt Đức “tái sinh” lại khuôn mặt bằng phương pháp mới lấy mỡ tự thân kết hợp với tế bào gốc. Phương pháp mới này không chỉ giúp bệnh nhân làm đầy được các vùng bị teo lõm mà còn tránh được các biến chứng mà các phương pháp cũ gây ra như u cục, ung thư...

Sống khép kín vì khuôn mặt teo lõm, xô lệch

35 tuổi, chị N.T.M. ở Hà Giang vẫn đi vào một mình dù có một công việc ổn định, thu nhập cao, dáng hình cân đối, các nét trên khuôn mặt rất đẹp... Mặc cảm vì 1 nửa khuôn mặt bị teo tóp hõm sâu làm xô lệch, M. chưa một lần dám hẹn hò cùng ai, thậm chí còn chẳng dám nhìn thẳng vào người khác. Chị luôn mặc cảm, đau đớn, sống khép kín vì căn bệnh quái ác của mình.

Ðiều trị teo lõm nửa mặt bằng bơm mỡ tự thân 1 Bệnh nhân trước và sau một năm được bơm mỡ và tế bào gốc.

Theo lời kể của gia đình, thuở nhỏ, M. là một đứa bé xinh đẹp kháu khỉnh, nhưng không hiểu vì sao từ khi 5 tuổi một nửa khuôn mặt của M. cứ càng ngày teo tóp, phần mỡ dưới da cứ tự tiêu đi, khiến phần mặt này nhăn nheo, chỉ còn da bọc xương. Gia đình cũng đưa M. đi khám chữa nhiều nơi, uống đủ các loại thuốc, xoa bóp châm cứu, tiêm botox... nhưng chỉ được một thời gian ngắn, má lại hóp, mặt lại lệch. Mặc cảm vì vẻ ngoài chẳng giống ai của mình, M. rất ít giao du bạn bè và khi nào cũng chỉ loanh quanh ở nhà, miệt mài với sách vở. Nhưng được người nhà động viên, M. lại tiếp tục thử vận may của mình tại BV Việt Đức. Tại đây, sau lúc thăm khám, M. được chẩn đoán mắc hội chứng Parry-Romberg, 1 căn bệnh không rõ nguyên nhân, do hệ miễn dịch tấn công và ăn mòn các mô cơ trên nửa gương mặt. Sau khi hội chẩn, các bác sĩ đã quyết định áp dụng phương pháp mới cho trường hợp này, đó là lấy mỡ tự thân từ cơ thể bệnh nhân, nuôi cấy tế bào gốc và đưa về chữa trị. Nhờ đó khuôn mặt bệnh nhân đã đầy đặn và cân đối trở lại. Thành công này không chỉ mang lại niềm vui, niềm kỳ vọng cho bệnh nhân và gia đình mà còn là động lực cho các bác sĩ tiếp tục nghiên cứu tìm ra những cách điều trị mang lại hiệu quả cao nhất cho bệnh nhân.

Hội chứng Parry- Romberg là gì?

TS. Nguyễn Hồng Hà, Trưởng khoa Phẫu thuật tạo hình - hàm mặt, BV Việt Đức cho biết, có nhiều nguyên do gây teo lõm tổ chức phần mềm như sau chấn thương, sau chiếu tia xạ, sau cắt bỏ khối u, sau các bệnh lý nhiễm khuẩn (lao, HIV...). Đặc biệt, đối với bệnh lý bẩm sinh gây teo lõm nửa mặt như trường hợp trên được gọi là hội chứng Parry-Romberg.

Theo y văn thế giới, hội chứng Parry- Romberg là hội chứng sọ mặt được miêu tả trước hết bởi Parry năm 1825, tới năm 1846 được diễn tả bởi Romberg. Những rối loạn này thường không rõ nguyên nhân mặc dù gần như kém chất lượng thuyết vào bệnh sinh được đề xuất. Hầu hết những nhái thuyết này đều cho rằng đây là một bệnh lý tự miễn mạn tính do nhiễm virut (Herpes) gây viêm thần kinh sinh ba, xơ cứng bì, khuếch đại hệ thần kinh giao cảm và làm teo lõm nửa mặt. Bệnh này không hiếm nhưng ít người biết tới và thường diễn ra ở nữ nhiều hơn nam. Hội chứng teo mặt thường Tiến hành khi bệnh nhân còn nhỏ, khoảng 5 tuổi và phát triển đến khoảng 15 tuổi thì dừng lại. Những người mắc hội chứng này thường mặc cảm, sống khép kín do gương mặt không được cân đối. Thậm chí, một số người còn bị teo cả phần xương khiến vẻ ngoài méo mó.

Tế bào gốc từ mô mỡ tự thân nâng hiệu quả điều trị đến 90%

Theo TS. Hà, trước đây, để làm đầy tổ chức cho những bệnh nhân bị teo lõm vùng mặt người ta thường sử dụng dầu paraphine và sau đó là silicon nhưng các chất liệu này thường gây nhiều biến chứng như viêm nhiễm, u cục... Ngày nay, có hầu hết cách tạo hình không như nhau để nâng cao thể tích phần mềm vùng teo lõm như bơm mỡ tự thân, ghép trung bì mỡ, ghép sụn, xương tự thân, sử dụng các chất liệu độn như silicon, alloderm, hay sử dụng các vạt vi phẫu (vạt bả, vạt cơ lưng to...). Tuy nhiên, chất liệu mỡ tự thân là một chất liệu rất tốt và thường được sử dụng trong bệnh lý Romberg.

Tại BV Việt Đức, trước đây, để điều trị cho người bị hội chứng này, các bác sĩ thường lấy mỡ từ cơ thể người bệnh (chủ yếu là vùng đùi, bụng dưới), bơm về phần mặt bị lép, có thể giúp cho vùng này đầy đặn lên. Ưu điểm của phương pháp này là tránh được nguy cơ thải loại hay lây truyền chéo các bệnh qua máu do lấy mỡ tự thân. Nếu thực hiện đúng quy trình, tỷ lệ mỡ sống khoảng 60-70% sau bơm. Tuy nhiên hiện nay, các chuyên gia đã tìm ra phương pháp mới là áp dụng bơm mỡ kết hợp với công nghệ tế bào gốc giúp nâng tỷ lệ sống của mỡ tự thân, khiến khuôn mặt của bệnh nhân luôn cân đối, ổn định. Đặc biệt, tế bào gốc sẽ giúp tỷ lệ mỡ sống được cao lên 70-90%, số lần bơm cũng giảm bớt từ 2-3 lần còn 1-2 lần. Tế bào gốc được qua nhiều khâu xử lý, cô đặc máu tĩnh mạch của chính bệnh nhân, có tác dụng giúp trẻ hóa da, làm liền vết thương nhanh, kích thích các mô mới phát triển tốt. Phương pháp mới này không chỉ giúp làm đầy mặt cho bệnh nhân bị lép mặt do hội chứng Rumberg hay những người có mặt quá gầy, hóp má, miệng... mà còn có thể sử dụng bơm lên ngực cho trường hợp ngực bị lệch tự nhiên hay sau quá trình cho con bú, người sau phẫu thuật cắt bỏ vú do ung thư, sau chấn thương, hội chứng Poland...

Để điều trị bằng phương pháp này, bệnh nhân sẽ được hút mỡ tại các vùng có không ít như đùi, bụng. Hỗn hợp mỡ lấy ra bao gồm máu, huyết thanh, tổ chức mỡ sẽ được quay ly tâm bằng máy trong 3 phút với tốc độ 30.000 vòng/phút. Hỗn hợp sau ly tâm sẽ tách được thành phần mỡ riêng. Đồng thời, các bác sĩ cũng lấy máu để tách tế bào gốc. Sau đó, mỡ và tế bào gốc được tiêm về nơi cần làm đầy bằng xi lanh 1cc theo nhiều hướng khác nhau.

Sau điều trị, bệnh nhân có thể xuất viện ngay trong ngày ví dụ gây tê tại chỗ hoặc sau một ngày ví dụ gây mê toàn thân. Đường rạch da vùng lấy mỡ và bơm mỡ có kích thước nhỏ khoảng trên dưới 2mm không để lại sẹo xấu.              

 

  Lam Giang

8 nguyên nhân khiến đàn ông hiếm muộn

Theo các bác sĩ hội Nội tiết sinh sản và vô sinh TP HCM, bệnh quai bị, giãn tĩnh mạch thừng tinh, tinh hoàn ẩn... khiến đàn ông chậm có con.

Thạc sĩ - bác sĩ Hồ Mạnh Tường, Tổng thư ký hội Nội tiết sinh sản và vô sinh TP HCM giải thích, trục trặc về phía người đàn ông chiếm 25% nguyên nhân khiến cả hai vợ chồng chậm con hoặc không có con. Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng này.

Bệnh quai bị

Nếu sau tuổi dậy thì, bệnh có thể gây hại cho các tế bào sản xuất tinh trùng trong tinh hoàn. Trong phần lớn trường hợp, chỉ một bên tinh hoàn của bệnh nhân bị ảnh hưởng. Một số người bệnh ảnh hưởng cả 2 tinh hoàn khiến việc sinh tinh không còn nữa. Chính vì vậy cần phải có phải tiêm ngừa phòng quai bị và chẩn đoán bệnh sớm để điều trị.

Giãn tĩnh mạch thừng tinh

Đây là tình trạng tĩnh mạch xung quanh tinh hoàn bị giãn do máu không lưu thông bình thường. Thay vì máu tới có thể thoát ra thì ùn ứ lại khiến tĩnh mạch bị giãn. Tình trạng máu ứ cũng làm tăng nhiệt độ ở tinh hoàn, từ đó biến đổi bất thường nồng độ testosteron (nội tiết nam) gây cản trở việc sản sinh tinh trùng.

Tinh hoàn ẩn

Khi bé trai phát triển trong tử cung người mẹ, tinh hoàn được hình thành tại ổ bụng và di đưa xuống bìu 1 thời gian ngắn trước lúc sinh. Nếu việc di chuyển này không xảy ra, bé trai sẽ có tinh hoàn ẩn. Thông thường, tinh hoàn sẽ di chuyển xuống bìu vào tháng thứ 6 của thai kỳ. Nếu không điều trị, bệnh có thể ảnh hưởng tới khả năng sinh sản hoặc các khiếu nại sức khỏe khác.

Ung thư tinh hoàn

Bệnh đôi lúc được phát hiện lúc vợ chồng đi khám hiếm muộn. Nguyên nhân do khối u ác tính phát triển trong tinh hoàn, phá hủy các mô tinh hoàn gây ảnh hưởng đến việc sinh tinh. Nếu không phát hiện sớm, không chỉ gây vô sinh mà ung thư tinh hoàn còn có thể di căn đến các bộ phận khác gây nguy hiểm tính mạng.

Phẫu thuật hoặc chấn thương

Chấn thương tinh hoàn nghiêm trọng có thể ảnh hưởng tới khả năng sản xuất tinh trùng dẫn tới vô sinh. Chấn thương do chơi thể thao hoặc tai nạn có thể làm máu không lưu thông tới tinh hoàn. Ngoài ra, phẫu thuật chữa trị tinh hoàn ẩn, thoát vị cũng có thể ảnh hưởng đến việc sinh tinh.

Bất thường mào tinh

Ở 1 số nam giới, tinh dịch xuất về âm đạo người phụ nữ trong lúc giao hợp chứ không phải tinh trùng. Điều này có thể do tắc nghẽn hoặc dị tật mào tinh, ngăn cản tinh trùng kết hợp với dịch lỏng tạo thành tinh dịch. Cần thăm khám và điều trị sớm.

Nhiệt độ cao

Không phổ biến và thường chỉ mang tính tạm thời bởi không ai có thể ngâm mình trong nước nóng cả đời, đây cũng là yếu tố bất lợi cho việc sản xuất tinh trùng. Ngâm mình trong nước nóng quá lâu có thể làm nâng cao nhiệt độ tinh hoàn và làm suy yếu tạm thời khả năng sản xuất tinh trùng.

Tiểu đường - Căng thẳng mệt mỏi hoặc uống rượu

Tiểu đường được chứng minh ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng. Ngoài ra, làm việc quá sức, lo lắng, stress, sử dụng thức uống có cồn đều ảnh hưởng tiêu cực đến say mê muốn tình dục. Hầu hết trường hợp bất lực được thăm khám đều có liên quan đến yếu tố tâm lý, ảnh hưởng tới chuyện chậm có con tại đàn ông.

Theo

VnExpress

Trí nhớ

Sự phát triển vượt bậc của y học dẫn tới những câu chuyện như trong cổ tích, việc lấy tim, gan, thận của người này ghép cho người kia đã trở thành hiện thực. Hơn thế, các thầy thuốc với những đôi tay vàng còn thực sự gây bất ngờ hơn khi họ đã làm thêm được một điều: lai ghép cả một phần... trí nhớ giữa người cho và người nhận tạng.

Những điều kỳ lạ…

Một em gái được ghép tim của 1 nạn nhân trong một vụ giết người chưa rõ thủ phạm. Sau lúc bình phục, em gái này luôn có những cơn ác mộng về 1 kẻ sát nhân đang giết 1 người nào đó. Trong giấc mơ, em thấy mình bị bắn và còn nhận thấy rõ địa điểm, khẩu súng, trang phục và khuôn mặt cũng như vóc dáng của kẻ giết người. Những cơn ác mộng cứ tái diễn thường xuyên khiến cho gia đình quyết định đưa em đến gặp bác sĩ tâm lý. Sau lúc nghe kể lại, vị bác sĩ tâm lý đã khuyên em tới gặp cảnh sát và cảnh sát đã tiến hành truy bắt được kẻ giết người theo đúng như em mô tả.

Một phụ nữ 29 tuổi, đồng tính luyến ái và nghiện ma túy được ghép tim của 1 cô gái 19 tuổi, rất hấp dẫn nam giới và có thói quen ăn chay. Sau khi được ghép tim, cô gái này tự nhiên không thích ăn thịt cá, chuyển sang ăn rau quả, bỏ được ma túy và thậm chí cô ta còn có ý định cưới 1 người đàn ông mạnh mẽ làm chồng!

Cũng tương tự như vậy, người cho tạng là nữ giới 24 tuổi, tử vong do tai nạn giao thông. Người nhận là nam giới, 25 tuổi, bị bệnh tim, phổi bẩm sinh nên được chỉ định ghép cả tim và phổi của người cho. Những điều tương tự cũng diễn ra lúc chàng thanh niên tự nhiên trở nên... nữ tính hơn và lại thích kết bạn với nam hơn là nữ giới.

Ngoài những ví dụ trên, người ta cũng tiếp nhân thấy những sự trảo đổi kỳ lạ vào sở thích, thói quen, tính tình... tại đa số bệnh nhân sau lúc được ghép tạng và những thay đổi này lại có xu thế giống với những đặc điểm của người cho tạng. Những hiện tượng nói trên đã được diễn tả đầy đủ trong y văn và thực sự mới được Quan tâm tới ở những bệnh nhân sau lúc được ghép tạng. Một số các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu và kết quả cho thấy nhiều bệnh nhân sau khi được ghép tạng, nhất là sau ghép tim, đều có những đánh tráo về tâm lý, tính tình và thói quen giống như người cho tạng.

Trí nhớ - Ði­ều bí ẩn sau ghép tạng 1 Có nhiều điều kỳ lạ về trí nhớ con người sau ghép tạng mà tới nay khoa học vẫn chưa lý giải được.

... Đến những nhái thiết

Sau hàng loạt những trường hợp được phát hiện, rất nhiều giả thuyết được đặt ra nhằm giải thích những hiện tượng trên. Đầu tiên là các ý kiến về tâm linh, có tính chất huyền bí, “ác kém chất lượng ác báo” như ví dụ đã diễn tả tại trên. Giả thuyết tâm linh, cho dù không đưa ra được những bằng chứng cụ thể như khoa học thực nghiệm và ít nhiều mang tính chất siêu nhiên, siêu phàm nhưng đây cũng là 1 giả thiết không dễ gì bác bỏ.

Ngoài những ý kiến nghiêng về góc độ tâm linh, các nhà khoa học đang nỗ lực lý giải hiện tượng trên một cách rõ ràng nhất. Thứ nhất, người ta lý giải hiện tượng trên thông qua việc người được ghép tạng đã biết được những thông tin vào người cho tạng và sau đó tự “ám thị” vào những thói quen, thị hiếu cũng như những giấc mơ của họ (người cho tạng). Những thông tin này có thể người nhận tạng đã biết trước hoặc họ nghe được từ nhân viên y tế trong quá trình ghép tạng mặc dù vào nguyên tắc, những thông tin về người cho tạng được đảm bảo tuyệt đối bí mật. Điều khó lý giải của giả thiết này là trong phần to các trường hợp, thông tin về người cho tạng được bảo mật tuyệt đối, thậm chí chính những thầy thuốc tham dự ghép tạng cũng không được biết ngoài những thông tin thiết yếu cho cuộc mổ, vậy mà sau đó hiện tượng mơ về người cho tạng vẫn xảy ra. Thứ 2 là giả định vào “trí nhớ của tế bào”. Giả thiết này đã và đang được chứng minh trên nhiều phương diện và có vẻ được chấp nhận rộng rãi vì tính chất khoa học của nó. Người ta cho rằng, mỗi tế bào trong cơ thể người, đặc biệt là những tế bào có liên hệ mật thiết với hệ thần kinh, hay có tính chất “thần kinh” sẽ có khả năng lưu giữ thông tin rất lớn. Tế bào của các tạng, nếu như như tế bào cơ tim là một loại tế bào đặc biệt, có tính tự động hóa rất cao nên việc có “trí nhớ” là hoàn toàn có thể. Tất cả những người hiến tim đều là những người khỏe mạnh bị đột tử trong các vụ tai nạn, bị sát hại... nên quả tim ngừng làm việc hết sức đột ngột. Khi được “sống lại” sau ghép, quả tim vẫn tiếp tục chu trình làm việc trước đó gần giống như lúc tại người cho và ảnh hưởng tới tâm sinh lý của người nhận. Các nhà khoa học cũng tìm được những chất dẫn truyền thông tin từ não tới các cơ quan. Những chất này thường duy nhất ở hệ thần kinh nhưng lại có hiện tượng tại cả tế bào cơ tim cũng như tại tế bào các phòng khác trong cơ thể, từ đó dẫn tới giả định “phải chăng tế bào này cũng có khả năng lưu trữ và vận chuyển thông tin?”. Cuối cùng, việc dùng các thuốc ức chế miễn dịch nhằm chống việc cơ thể thải loại các phòng “lạ” sau ghép cũng có thể góp phần về hiện tượng nâng cao cường truyền thông điệp trí nhớ - tế bào từ các bộ phận người cho sang các cơ quan người nhận và gây nên các hiện tượng kỳ lạ sau ghép tạng.

Thay cho lời kết

Mặc dù đã được tìm hiểu rất kỹ, nhưng cơ thể của mỗi người chúng ta - những “tiểu vũ trụ”, vẫn thực sự có những điều bí ẩn mà khoa học hiện đại vẫn chưa lý giải nổi. Các hiện tượng kỳ lạ vẫn đang và sẽ xảy ra, cần được chứng minh một cách hoàn hảo nhất. Và trong lúc chờ đợi những câu trả lời cụ thể, suy cho cùng, dù ở góc độ tâm linh hay khoa học, những hiện tượng kỳ lạ xảy ra sau ghép tạng vẫn chứng tỏ có một sợi dây vô hình đang tồn tại giữa những người cho tạng (đã chết) với người được nhận tạng (còn sống). Điều này mang 1 ý nghĩa nhân văn hết sức cao cả, một sự ràng buộc, 1 tình cảm gắn bó, một mối liên hệ hết sức thiêng liêng giữa con người với con người - dù còn sống hay đã chết và y học hiện đại, dù vô tình hay cố ý, cũng có thể đang làm được 1 công việc siêu phàm: duy trì được 1 phần cơ thể và trí nhớ của người đã chết luôn tồn tại và hoạt động trên thế gian này!            

 TS.BS. Vũ Đức Định

Thêm lựa chọn trong điều trị nhiễm độc thận

FDA vừa cho phép dùng thuốc procysbi (cysteamine bitartrate) để quản lý bệnh nhiễm độc thận do cystine (cystinosis nephropathic) ở trẻ em và người lớn. 

Bệnh do cystine gây ra là 1 bệnh di truyền hiếm gặp, gây tử vong ví dụ không được điều trị trong thời thơ ấu. Sự tích tụ của cystine gây ra khiếu nại về thận, có thể làm cho cơ thể mất quá nhiều đường, protein và muối qua nước tiểu, dẫn đến làm chậm sự phát triển của cơ thể, vóc dáng nhỏ, xương yếu đặc biệt là thận sẽ càng ngày càng yếu đi.

Hiện tại, FDA đã chấp thuận các loại thuốc dùng để điều trị bệnh này bao gồm cystagon (cysteamine bitartrate) phê duyệt về năm 1994, cystaran (cysteamine) nhỏ mắt được phê duyệt năm 2012 để điều trị tích tụ tinh thể cystine giác mạc và procysbi. Viên nang procysbi được dùng cho bệnh nhân từ 6 tuổi trở lên có tác dụng kéo dài 12 giờ.  Các tác dụng phụ thường gặp nhất tại những bệnh nhân được điều trị bằng procysbi bao gồm buồn nôn, hơi thở hôi, đau bụng, táo bón, khó tiêu hoặc nhức đầu, buồn ngủ và chóng mặt. Tác dụng phụ hiếm gặp nhưng nghiêm trọng khác bao gồm loét hoặc chảy máu dạ dày và ruột, thay đổi trạng thái tinh thần, co giật, phát ban da nghiêm trọng và phản ứng dị ứng.

P. Hà (Theo FDA, 4/2013)

Phụ nữ biểu đạt cảm xúc tốt hơn nam giới

Nghiên cứu của các nhà khoa học Trường ĐH Canada cho biết, sự phân biệt giữa cảm xúc chán ghét và sợ hãi tại phụ nữ có khuynh hướng cao hơn so với nam giới. Đó là nhờ về khả năng vào thính giác, thị giác và cảm xúc thính thị của phụ nữ luôn nhạy bén hơn. Kiểm nghiệm được tiến hành trên 23 nam và 23 nữ diễn viên độ tuổi từ 18 - 45 và không có ai trong số họ có khiếu nại về thần kinh hoặc tâm thần. Họ được yêu cầu phân loại 1 cách nhanh nhất những cảm xúc chán ghét và sợ hãi. Những cảm xúc dựa trên cửa hàng kích thích thính giác, thị giác theo sau cảm xúc thính thị tương xứng và trái ngược (chẳng hạn như một khuôn mặt biểu lộ cảm xúc sợ hãi còn giọng nói lại tỏ ra căm ghét). Kết luận cho thấy, nữ nổi trội hơn nam trong việc hoàn thành cuộc kiểm tra và phản ứng nhanh nhạy hơn lúc miêu tả cảm xúc được mô tả sinh động từ các nữ diễn viên rất tốt hơn nam. Họ còn tỏ ra nhanh hơn lúc trình bày biểu cảm trên mặt và diễn đạt nhiều cảm giác hơn.      

H.Y   (Theo Science Daily, 3/2013)

Ði nhanh tốt hơn chạy

Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Quốc gia Lawrence Berkeley tại California (Mỹ) đã so sánh dữ liệu từ 2 cuộc khảo sát 33.060 người chạy và 14.045 người đi bộ nhanh. Kết quả cho thấy, với cùng năng lượng tiêu thụ, người đi bộ nhanh hưởng được lợi ích vào mặt sức khỏe cao hơn người chạy bộ.

Ảnh hưởng của hai loại hình vận động đối với những người tham gia, tuổi từ 18 - 80 đã được quan sát suốt 6 năm trước lúc các chuyên gia rút ra kết luận cuối cùng.

Theo đó, chạy bộ giảm nguy cơ tim mạch ở mức 4,5%, trong khi đi bộ nhanh giảm đến 9,3%.

Nguy cơ xuất hiện nâng cao huyết áp lần đầu tiên giảm 4,2% tại người chạy bộ và 7% tại người đi bộ nhanh. Trong lúc đó, nguy cơ tiểu đường cũng giảm khoảng 12% cho cả hai loại hình vận động.

               Quân Lưu (Theo New York Time, 4/2013)

Dinh dưỡng trong bệnh da

Các chất dinh dưỡng, sinh tố và khoáng chất không những có vai trò duy trì cuộc sống mà còn có tác dụng ngăn ngừa và phòng bệnh. Chế độ dinh dưỡng thiếu 1 số khoáng chất và sinh tố cũng có thể là nhân tố gây ra bệnh ngoài da và cả nội tạng. Do đó, dinh dưỡng và bệnh ngoài da có liên quan mật thiết với nhau. Có nhiều bệnh da có hiện tượng lúc thiếu một số khoáng chất và sinh tố mà khẩu phần ăn hằng ngày không cung cấp đủ.

Bổ sung các loại vitamin thiếu hụt bằng chế độ ăn và uống thêm vitamin tổng hợp là rất nhu yếu vì chế độ dinh dưỡng và sinh tố có vai trò cấp thiết trong điều trị bệnh da. Chế độ ăn đầy đủ các chất cấp thiết sẽ góp phần đẩy lùi bệnh tật cũng như tăng hiệu quả điều trị. Nhiệm vụ của người thầy thuốc phải nắm vững chế độ ăn, các chất cần bổ sung cho mỗi nhóm bệnh để hướng dẫn cho người bệnh.

Các chất dinh dưỡng cơ bản cần cho cơ thể

Protein: Protein có vai trò trong sự thành lập các kháng thể để chống lại các tác nhân gây bệnh. Nếu chính sách dinh dưỡng thiếu protein, cơ thể sẽ giảm sức đề kháng, rối loạn thần kinh và rối loạn các chức năng nội tạng. Protein có rất nhiều trong thịt, cá, trứng, sữa, các loại hải sản như nghêu sò ốc hến, đậu nành, phomat...

Dinh dưỡng trong bệnh da 1 Sò huyết giàu protein là món ăn giúp chống lại các tác nhân gây bệnh da.
Glucid và lipid:

Nếu thiếu 2 chất này sẽ làm cơ thể giảm sự tổng  hợp globulin là các chất tham dự vào sự thành lập các kháng thể bảo vệ cơ thể, làm tăng hiện tượng viêm của các mô và làm nâng cao sự mẫn cảm da. Glucid có rất nhiều trong gạo, các loại ngũ cốc... Lipid có rất nhiều trong trứng, sữa, thịt, bơ và các chất béo khác.

Nước muối khoáng và các chất vi lượng khác: Có vai trò rất lớn góp phần vào sự tổng hợp các nội tiết tố, enzym và kháng thể cho cơ thể chống lại bệnh tật.

Vai trò của chính sách ăn với bệnh ngoài da

Dinh dưỡng phù hợp có vai trò cần phải có trong việc tạo hiệu quả điều trị 1 số bệnh ngoài da, vì bệnh có thể bộc phát hoặc nặng thêm ví dụ chế độ ăn không phù hợp, do đó tùy theo nhóm bệnh mà khuyên bệnh nhân nên có chế độ ăn cần yếu cho từng bệnh hay nhóm bệnh.

Dinh dưỡng trong bệnh da 2 Biểu hiện bệnh da do thiếu sinh tố.
Nhóm bệnh dị ứng: bao gồm nhiều bệnh như: viêm da tiếp xúc dị ứng, viêm da cơ địa, mày đay, sẩn ngứa… Chế độ ăn cần thực hiện như: giảm đường và muối trong giai đoạn cấp, vì đường huyết cao có thể gây hiện tượng quá mẫn cho cơ thể và lượng muối cao gây kích thích thần kinh ngoại biên làm bệnh nhân tăng các cảm giác ngứa, đau; Giảm các thức ăn gia vị như ớt, tiêu, rượu, trà, cà phê, thuốc lá; Giảm uống nước nếu vết thương rỉ dịch nhiều và ví dụ sự rỉ dịch tại tổn thương không ảnh hưởng đến huyết áp; Kiêng ăn các loại tôm, cua, cá biển, đồ hộp, trứng sữa và các thức ăn lên men; Nên ăn thức ăn có nhiều sinh tố A, B, C, trái cây, rau, củ, quả; Nếu là trẻ em cần chế độ ăn phù hợp cho từng lứa tuổi và giảm các chất đường, sữa, trứng.

Nhóm bệnh nhiễm khuẩn da: bao gồm chốc, nhọt, viêm da mủ... Giảm đường trong chế độ ăn hằng ngày, dùng nhiều rau xanh để mang đến vitamin và các chất xơ chống táo bón. Bổ sung thêm các vitamin nhóm A, B, C, giúp cơ thể chuyển hóa đường, tăng khả năng chống độc cho gan và nâng cao cường sức đề kháng của cơ thể.

Nhóm bệnh da khácnhư bệnh vảy nến, trứng cá, các bệnh đỏ da bong vảy: Giảm thức ăn có rất nhiều đường và nhiều chất béo, tránh dùng các chất kích thích như rượu, trà, cà phê, thức ăn nhiều gia vị. Ăn nhiều rau, củ, quả để tránh táo bón. Bổ sung các nhóm vitamin A, B, C.

Nhóm bệnh gây mất huyết tương như dị ứng thuốc, bệnh bọng nước như pemphigut, thủy đậu, Durhing Brocque:Ăn thức ăn lỏng dễ tiêu, uống nhiều nước, ăn nhạt giảm muối và giảm dùng các chất kích thích.

Nhóm bệnh da do thiếu sinh tố, ví dụ bệnh viêm da đầu chi ở trẻ em: Cần bổ sung sinh tố và khoáng chất trong chính sách ăn hằng ngày, thức ăn có nhiều kẽm như sò, đậu nành, đậu Hà Lan, củ cải, lòng đỏ trứng gà, thịt cừu, thịt lợn.     

  BS. Hoa Tấn Dũng

Thoái hóa sụn

Thoái hóa sụn - khớp là bệnh hay gặp nhất của người cao tuổi (NCT), không phân biệt nam và nữ. Đây là bệnh thoái hóa mang tính quy luật của sụn khớp và đĩa đệm, lệ thuộc vào tuổi tác và có thể do đặc thù nghề nghiệp.

Đặc điểm sụn - khớp và một số nguyên do gây làm thoái hóa

Khớp bao gồm dây chằng, cơ bắp, gân, sụn, bao khớp (có màng hoạt dịch lót tại phía trong). Dây chằng có tác dụng gắn các khớp với nhau và co giãn nhịp nhàng; cơ bắp co duỗi làm cho các khớp chuyển động; gân gắn xương với cơ thể để chuyển sức co của cơ vào xương; bao khớp có dịch khớp: tác dụng bôi trơn khớp, giúp cho khớp hoạt động nhịp nhàng và dịch khớp còn có tác dụng dinh dưỡng cho khớp. Với tổ chức sụn là một thành phần lớp đệm bảo vệ, đóng vai trò vô cùng nhu yếu tránh sự cọ xát của hai đầu xương lúc vận động, làm trơn bề mặt khớp và ngăn cản hay phân tán lực tác động lên bề mặt của sụn, bảo vệ đầu xương.

Thoái hóa sụn - khớp và hướng điều trị 1

Đặc điểm của lớp sụn khớp là lớp mô trong suốt vừa cứng vừa dai và đàn hồi tốt. Sụn khớp được cấu tạo hai thành phần chính là tế bào sụn và chất căn bản. Tế bào sụn không có khả năng sinh sản và không có khả năng tái tạo sau tuổi trưởng thành và cho nên không có tế bào mới thay thế tế bào chết. Chất cơ bản có rất nhiều thành phần không như nhau như: nước, proteoglycan và sợi collagen. Proteoglycan chứa lõi protein và các chuỗi glycosaminoglycan tại bên cạnh và chính yếu là chondroitin sulfate và keratan sulfate. Các thể proteoglycan kết nối với acid hyaluronic. Các glycosaminoglycan khác và các protein liên kết với cấu trúc này bảo đảm tính ổn định và bền vững của sụn. Trong các chất căn bản thì vai trò cần phải có đặc biệt collagen týp 2 (UC-II), chiếm 85 - 90%.

Sụn khớp không có mạch máu hoặc dây thần kinh đi qua, do đó chúng được nuôi dưỡng nhờ sự thẩm thấu nhờ tổ chức xương dưới sụn, màng hoạt dịch và dịch khớp. Do vậy, sụn rất dễ bị thoái hóa âm thầm theo năm tháng mà sắp như không có dấu hiệu báo trước. Thống kê cho thấy có khoảng trên 50% số người trên 65 tuổi có hình ảnh X-quang thoái hóa sụn - khớp và lứa tuổi trên 75 thì gần như có ít nhất một khớp bị thoái hóa.

Lời khuyên thầy thuốc

Cần lưu ý là chỉ nên chọn lựa một trong số các thuốc chống viêm giảm đau không steroid, không nên phối hợp hai hay nhiều thuốc cùng nhóm vì nếu kết hợp nhiều loại sẽ làm nâng cao nguy cơ biến chứng nhưng tác dụng điều trị thì không tăng.

 

Một số nguyên do chính làm thoái hóa sụn khớp được nhắc đến nhiều nhất là do sự lão hóa. Bởi vì, tại người trưởng thành các tế bào sụn không có khả năng sinh sản và tái tạo, mặt khác khi tuổi càng cao, cùng với sự lão hóa của cơ thể, các tế bào sụn cũng dần dần giảm chức năng tổng hợp các chất căn bản. Ngoài ra, có nhiều yếu tố tiện lợi làm cho tổ chức sụn khớp bị tổn thương như: chấn thương hoặc vi chấn thương có vai trò cần thiết làm trảo đổi bề mặt sụn. Những chấn thương lớn gây gãy xương, trật khớp kèm theo tổn thương sụn hoặc phân bố lại áp lực trên bề mặt sụn khớp. Một số bệnh về nội tiết, rối loạn chuyển hóa, bệnh vào khớp hoặc bệnh về máu làm ảnh hưởng đến thoái hóa sụn khớp thường gặp là bệnh to đầu chi, bướu cổ đơn thuần, phụ nữ sau mãn kinh, các dị tật bẩm sinh về khớp, viêm khớp nhiễm khuẩn (thấp khớp cấp), viêm khớp mãn tính, bệnh gout, bệnh loạn dưỡng xương, bệnh rối loạn đông, chảy máu (Hemophylia). Ngoài ra còn có thể di yếu tố gia đình (di truyền) hoặc hay gặp hơn là do nghề nghiệp đặc thù.

Những người đang hoặc có tiền sử lao động nặng nhọc, công nhân khuân vác, những thợ mỏ có tỉ lệ mắc bệnh thoái hóa sụn - khớp cao hơn những người làm công việc nhẹ.

Một số triệu chứng điển hình

Đau nâng cao lúc vận động, giảm khi nghỉ. Đau âm ỉ, tăng từng đợt lúc mang vác nặng, sai tư thế, lúc mệt mỏi, căng thẳng thần kinh, thay đổi thời tiết và nổi trội đặc biệt bệnh hay tái phát. Đau thường xuất hiện sớm tại những khớp chịu lực ( khớp gối, khớp cổ chân, cổ tay, cột sống thắt lưng, cột sống cổ). Không hoặc ít kèm các biểu hiện viêm.

Có thể có tràn dịch khớp mà thường gặp tại khớp gối. Hạn chế vận động, đặc biệt sáng sớm khi mới ngủ dậy, điển hình là khớp gối. Dấu hiệu lạo xạo lúc vận động (đặc biệt ở khớp gối). Nếu bệnh xảy ra với thời gian dài có thể gây biến dạng khớp mà hay gặp nhất tại NCT là cột sống gây gù, vẹo, co cứng cơ lưng. Trong trường hợp bị thoái hóa cột sống thắt lưng thì có thể gây đau thần kinh tọa, teo cơ đùi hoặc cẳng chân. Nếu thoái hóa cột sống cổ thì gây nên đau vai gáy, tê tay. Một số trường hợp có thể gây teo cơ do ít vận động.

Điều trị thoái hóa sụn khớp như thế nào?

Có một số nguyên tắc chung trong điều trị thoái hóa sụn - khớp là điều trị triệu chứng đau và điều trị duy trì. Cần sử dụng thuốc giảm đau nhưng phải giảm thiểu tới mức tối đa thuốc có tác dụng phụ đến hệ thống tiêu hóa (dạ dày) và hệ thống tim mạch. Thuốc giảm đau có thể là các thuốc chống viêm giảm đau, các thuốc giảm đau đơn thuần, các thuốc điều trị chống co cứng cơ. Điều trị duy trì gồm các loại thuốc giảm đau và thuốc làm thay đổi các cấu trúc sụn. Loại thường được dùng là loại thuốc chống viêm giảm đau không steroid. Đây là nhóm gồm nhiều thuốc, có tác dụng chống viêm, giảm đau và hạ sốt. Khi dùng liều nhỏ các thuốc chống viêm giảm đau này sẽ giảm nguy cơ tác dụng phụ trên ống tiêu hóa.

Các thuốc chống viêm kinh điển hoặc các thuốc chống viêm giảm đau ức chế COX1, COX2 đều có thể chỉ định điều trị thoai hóa khớp. Tuy nhiên thuốc ức chế chọn lọc COX2 ít nguy cơ gây biến chứng viêm, loét, chảy máu hoặc thủng dạ dày tá tràng hơn COX1. Cần lưu ý là chỉ nên chọn lựa một trong số các thuốc chống viêm giảm đau không steroid, không nên phối hợp hai hay nhiều thuốc cùng nhóm vì nếu như kết hợp nhiều loại sẽ làm tăng nguy cơ biến chứng nhưng tác dụng điều trị thì không tăng. Bên cạnh đó, khi dùng các loại thuốc này cần được có phối hợp thêm các thuốc bảo vệ niêm mạc dạ dày, thuốc ức chế bơm proton (omeprazole 20mg/ngày) hoặc misoprostol (200mg/2lần/ngày).

Việc dùng thuốc để tái tạo sụn khớp rất cần thiết. Vì vậy, người ta vận dụng Glucosamin sulfat trong điều trị thoái hóa sụn - khớp. Thuốc này có tác dụng tăng tổng hợp các tinh chất sụn proglycan và glucosaminoglycan làm tăng tính đàn hồi của tinh chất sụn, thay đổi cấu trúc sụn khớp. Thêm vào đó còn được sử dụng loại Glucosamin sulfat kết hợp chondroitin sulfat được coi là chất dinh dưỡng bổ sung, có thể sử dụng riêng rẽ hoặc phối hợp thuốc để làm nâng cao hiệu quả điều trị...

Những bệnh nhân điều trị nội khoa không kết quả hoặc có ảnh hưởng to đến chức năng cử động khớp có thể sử dụng biện pháp can thiệp phẫu thuật, nhưng phải tùy theo loại khớp nào có thể tiến hành được.

PGS.TS. BÙI KHẮC HẬU

 

Thoái hóa sụn khớpThoái hóa sụn khớpPhòng thoái hóa khớp bàn và ngón tayPhòng thoái hóa khớp bàn và ngón tayCải thiện chứng thoái hóa khớpCải thiện chứng thoái hóa khớp

 

Bộ xương giống người ngoài hành tinh tiết lộ nhiều bí ẩn y học

Theo các phân tích mới nhất, bộ xương tí hon dài 15cm, được tìm thấy ngoài vùng sa mạc Atacama ở Chile 10 năm trước, tiết lộ một vài bí ẩn y học...

Bộ xương giống người ngoài hành tinh tiết lộ nhiều bí ẩn y học 1Bộ xương dài 15cm.

Bộ xương này có một vài điểm kì dị: hộp sọ trông giống của người ngoài hành tinh, cơ thể bé xíu và có 10 xương sườn thay vì 12.Lúc nó được tìm thấy ngoài vùng sa mạc Atacama (Chile) vào 10 năm trước, một vài người đã cho rằng người ngoài hành tinh đã từng đặt chân tới trái đất. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu vẫn chưa có 1 kết luận nào vào nguồn gốc có liên quan tới một hành tinh khác của bộ xương này…

Bộ xương giống người ngoài hành tinh tiết lộ nhiều bí ẩn y học 2

Garry Nolan, giáo sư bộ môn vi trùng học và miễn dịch học tại trường Y Stanford, California cùng đồng nghiệp đã phân tích mẫu vật này từ mùa thu năm 2012 bằng các phương pháp chụp tia X, kiểm tra DNA và xem xét kỹ lưỡng những bức ảnh với độ phân giải cao. Nhóm nghiên cứu muốn kiểm tra xem có phải phần dị dạng của bộ xương là do 1 chứng rối loạn hiếm nào đó hay không, xác định độ tuổi khi chết của “người” này, đó là bào thai sinh non, chết non hay là một đứa trẻ bị dị dạng? Và nó là người hay là 1 loài linh trưởng ở Nam Mỹ?

Bộ xương giống người ngoài hành tinh tiết lộ nhiều bí ẩn y học 3Ảnh chụp X-quang dùng cho quá trình phân tích.

Phần hộp sọ dị dạng điển hình của người ngoài hành tinh, và phần giữa mặt và hàm được cho là dấu hiệu của hội chứng “đầu cao” (turricephaly), một dị tật bẩm sinh trong đó phần sọ trên bị nhô lên và có hình nón.

Bộ xương giống người ngoài hành tinh tiết lộ nhiều bí ẩn y học 4Hộp sọ và phần hàm dị dạng.

Các kết quả kiểm tra gen cho thấy rằng đây là bộ xương người, chết tại độ tuổi từ 6 tới 8. Mặc dù có 9% lượng gen không khớp với gen của người, điều này có thể do nhiều nhân tố khác nhau, bao gồm cả sự thoái hóa của bộ xương hoặc do dữ liệu không đầy đủ.

Bộ xương giống người ngoài hành tinh tiết lộ nhiều bí ẩn y học 5

Bộ xương giống người ngoài hành tinh tiết lộ nhiều bí ẩn y học 6Phần hộp sọ giống người ngoài hành tinh.

TheoAn ninh thủ đô/ News Discovery

Làm gì để giảm ngáy khi ngủ?

Đa số ngáy không phải là một bệnh, tuy nhiên, một số bệnh lý cần phải có liên quan tới ngáy như ngưng thở lúc ngủ do tắc nghẽn hoặc 1 số bệnh tim mạch khác có thể gây đột tử trong khi ngủ.

Ngáy ngủ có thể chia làm 3 cấp độ: Nhẹ:  ngáy ít, tiếng ngáy không lớn và khi nằm nghiêng sẽ ngừng ngáy; Trung bình: ngáy vừa phải, ngáy lớn hơn và nằm ngủ ở tư thế nào cũng vẫn ngáy; Nặng: ngáy rất lớn tại mọi tư thế nằm ngủ và kèm theo triệu chứng nghẹt thở nhất thời, khiến người ngáy tỉnh giấc với trạng thái mệt mỏi. Mức độ này có thể hiểm nguy tới bệnh nhân.

Ngáy ngủ có không ít nguyên nhân, thường gặp ở những trường hợp như: dị ứng, amidan quá to; viêm xoang; uống rượu say ngủ mê mệt; béo phì khiến lớp mỡ dày cộm lên cuống họng làm đánh tráo cấu trúc, thu hẹp và cản trở không khí; hút thuốc lá nhiều khiến khói ám làm cổ họng sưng lên, gây nghẹt và hẹp đường thông khí; hoặc do những dị dạng bẩm sinh như cổ họng hẹp, cuống lưỡi to, cuống họng dài; tại 1 vài trường hợp cũng có thể do di truyền.

Cần phải làm gì?

Làm gì để giảm ngáy khi ngủ? 1 Amidan lớn - nguyên do gây ngủ ngáy.

Để giảm ngáy ngủ thì tùy từng nguyên do mà có cách khắc phục không giống như: đối với người béo phì thì cần giảm cân, đối với người có thói quen uống rượu rồi ngáy thì tránh uống rượu 4 tiếng trước khi ngủ… Tuy nhiên, 1 số trường hợp không thể điều trị được mà cần can thiệp tới kỹ thuật của y học thì có thể kết hợp áp dụng một số biện pháp sau: Gối cao: ngủ gối cao sẽ làm đầu cao hơn ngực, điều này giúp bạn giảm chứng ngáy vì đường thở của bạn thoả thích hơn; Ngủ nghiêng: người nằm ngửa có xu hướng ngủ ngáy nhiều hơn so với người nằm ngủ nghiêng sang một bên. Nằm ngửa làm hàm khép lại, lưỡi khép lại và chặn đường thở. Do vậy, bạn hãy nằm nghiêng sẽ thấy hơi thở trở nên yên tĩnh hơn rất nhiều; Uống nước: cung cấp nước đầy đủ cho cơ thể bằng cách uống nhiều nước. Điều này sẽ ngăn chặn tình trạng ngủ ngáy do tắc nghẽn vì ít chất nhầy trong mũi; Tập luyện: việc tập thể dục không chỉ giúp bạn ngủ ngon giấc và sâu hơn mà còn làm các cơ săn chắc, hạn chế vùng mỡ thừa trên cơ thể, đặc biệt mô mỡ xung quanh vùng cổ làm cổ họng bị chèn ép gây ra âm thanh lúc ngủ sẽ khiến bạn ngủ ngáy. Do đó, hãy tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày để giảm ngáy và kết hợp bài tập sau:

Đối với miệng: mở miệng từ từ (càng to càng tốt) và ngậm chặt môi lại trong 5 giây. Sau đó mở miệng cười thật rộng (nói chữ whisky), giữ như vậy trong vòng 5 giây. Lặp lại động tác này 6 lần. Tiếp theo, chu miệng ra phía trước, giữ động tác này trong 5 giây và lặp lại 6 lần.

Đối với lưỡi: lè lưỡi ra càng xa càng tốt và giữ yên khoảng 5 giây. Sau đó đẩy lưỡi sang phải rồi sang trái, càng xa càng tốt. Cong lưỡi lên trên về phía mũi như có thể chạm đến mũi sau đó cong lưỡi xuống dưới vào phía cằm như xoay tròn lưỡi quanh miệng.

Đối với môi: ngậm hai môi lại như bài một, sau đó chúm môi lại giống như động tác như hút ống hút (kéo môi vào trong 1 ít) trong 5 giây. Sau đó có thể ngậm chặt một ống hút hoặc thìa, đũa giữa hai môi trong 5 phút.

Đối với cằm: lấy ngón tay đè về cằm trong 5 phút. Ngoài ra, có thể tập bài khác như ngồi thẳng và đưa hàm dưới thẳng ra trước tối đa (lấy hàm trên làm mốc), thả lỏng hàm dưới và lần lượt đưa hàm dưới tối đa qua 2 bên, thổi bong bóng sẽ làm cơ vùng họng phải hoạt động và săn chắc dần. Người bệnh cần tập đều đặn hằng ngày và kiên trì.

Ngáy có gây nguy hiểm?

Ngáy ngủ thường gây khó chịu cho người xung quanh. Nhưng trong 1 số trường hợp nó hiểm nguy đối với người bệnh. Người ngáy thường có nguy cơ ngưng thở khi ngủ do các phần mềm và niêm mạc của cuống họng làm nghẹt khí quản, 2 lá phổi và não bị thiếu dưỡng khí. Khi đó, não sẽ phát ra tín hiệu làm giãn nở cuống họng và khí quản, làm cho quy trình hô hấp trở lại bình thường. Nếu những rối loạn diễn ra thường xuyên sẽ gây  chứng ngưng thở lúc ngủ, khiến giấc ngủ không ngon và thời kỳ ngủ say bị ngắt quãng. Hậu quả là bộ não không nghỉ ngơi hoàn toàn sau 1 ngày hoạt động, khiến người bệnh phát triển thành mệt mỏi, giảm năng suất làm việc, không tập trung, lâu dần sẽ suy giảm trí nhớ. Ngoài ra, bệnh ngáy ngủ còn dẫn đến nhiều nguy cơ mắc các chứng bệnh khác như tăng huyết áp, suy giảm khả năng tình dục, bệnh nhồi máu cơ tim, tim loạn nhịp hoặc bệnh đột tử trong khi ngủ.

Khi nào cần tới bác sĩ?

Trong trường ứng dụng mọi biện pháp hạn chế, loại trừ nguyên do mà vẫn ngáy kéo dài, cần tới cơ sở y tế để được bác sĩ khám chữa bệnh hoặc tư vấn phương pháp nhằm giảm thiểu ngáy phù hợp với bạn.

Đối với phụ nữ mang thai có thể bắt đầu bị ngáy trong ba tháng giữa thai kỳ. Nguyên nhân là do tăng huyết áp, một điều rất nguy hiểm lúc mang thai. Vì vậy, nếu phụ nữ mang thai có hiện tượng ngáy thì cần nhanh chóng được kiểm tra huyết áp.

Đối với trẻ em ngáy thường do amidan và vòm họng mở rộng, vì vậy, nếu như trẻ ngáy to 2-3 lần/tuần thì nên đưa trẻ đến bác sĩ khám sớm. 

 

  BS. Nguyễn Văn Tuấn

Những thiết bị và công nghệ đang được đón đợi

Nhờ những cố gắng không ngừng, con người đã phát minh ra nhiều điều kỳ lạ, nó không chỉ mang lại lợi ích thiết thực mà còn làm thay đổi cuộc sống của nhân loại. Trong số những phát minh đó, các công nghệ, thiết bị dưới đây được xem là những “điểm nhấn” quan trọng.

Hệ thống giả võng mạc Argus II

Những thiết bị và công nghệ đang được đón đợi 1 Hệ thống chất lượng kém võng mạc Argus II .

Hệ thống chất lượng kém võng mạc Argus II hay còn gọi là võng mạc nhân tạo là thiết bị có thể mang lại thị lực cho nhóm người bị mù một phần hay toàn phần chính thức được Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt đầu năm 2012. Nguyên lý hoạt động của Argus II là thu hình ảnh thông qua một máy quay phim nhỏ xíu đặt trong kính, sau đó chuyển đổi thành các hướng dẫn, được "gom lại" nhờ 1 thiết bị cấy ghép đặt phía sau mắt. Một lúc thiết bị cấy ghép tiếp nhận được thông tin, nó sẽ truyền tiếp đến cho một mảng điện cực và tiếp tục chuyển thông tin lên não thông qua các dây thần kinh thị giác. Đây đích thực là cuộc cách mạng công nghệ mới mang lại ánh sáng cho hàng triệu người khuyết tật thị lực và người mù trên toàn thế giới.

Myo

Những thiết bị và công nghệ đang được đón đợi 2 Băng cảm biến Myo.

Myo là 1 loại băng đeo tay có chứa các cảm biến cho phép dùng các hoạt động điện trong cơ bắp theo kiểu không dây để kiểm soát máy tính, điện thoại và các thiết bị kỹ thuật số tương ứng khác qua Bluetooth. Theo những người phát minh thì Myo tương thích với toàn bộ các thế hệ Windows, Mac OS, iOS và Android, dự kiến sẽ xuất xưởng về cuối năm 2013.

Kính Google

Từ lâu con người đã nỗ lự cho ra đời những loại kính thông minh nhưng vẫn chưa đạt đến mục tiêu mong đợi. Trong năm 2012 vừa qua, kính Google Glass đã được tạp chí Time của Mỹ bình chọn là một trong những phát minh sáng chói trong năm, dự kiến sẽ ra mắt thị trường về năm 2014. Google Glass thực chất là 1 máy tính được thiết kế theo kiểu kính đeo, với 1 màn hình hiển thị nửa inxơ (1,27cm), cho phép người sử dụng thực hiện chat video, chụp và chia sẻ hình ảnh, lướt web, kiểm tra lịch hẹn, xem bản đồ...  Google là 1 trong những công ty sáng tạo nhất thế giới với rất nhiều sản phẩm đột phá trong đó có siêu phẩm kính Google Glass nói trên. Với thiết bị này, cuộc sống của con người sẽ được đánh tráo một cách đáng kể, người ta không cần vào mạng, đọc báo, về rạp chiếu phim... nhưng vẫn biết được những gì mới nhất đang diễn ra trên thế giới.

Bảng quảng cáo... chế ra nước sạch

Những thiết bị và công nghệ đang được đón đợi 3

Thực tế, quảng cáo chẳng liên quan gì tới nước sạch bởi đây là hai lĩnh vực khác biệt nhưng tại Thủ đô Lima của Pêru hiện đang có 1 biển quảng cáo rất độc đáo, có thể phân phối nước uống cho cư dân quanh vùng nhờ khả năng sản xuất nước sạch từ hơi ẩm có trong không khí hay còn gọi là bảng PR "2 kết hợp". Sản phẩm hợp tác giữa Trường đại học Bách khoa Pêru và Trung tâm Quảng cáo Mayo Draft TCB. Nó có khả năng sản xuất được 26 galong nước mỗi ngày (118 lít) nhờ hàm ẩm trong không khí rất cao thông qua 5 bộ phận hút lọc hơi ẩm. Nước chế ra có chất lượng tốt, uống được ngay và được xem là cuộc cách mạng lớn, mang tính khả thi cả vào kinh tế đơn thuần lẫn môi trường.

Đồng hồ thông minh

Có tên là Pebble, chính thức ra mắt trong năm 2013, đây cũng là chiếc đồng hồ thông minh trước hết có trên toàn cầu hiện nay. Bên cạnh những chức năng truyền thống, Pebble có thể được kết nối với điện thoại thông minh hoặc máy tính bảng, với Android đơn giản hoặc áp dụng iOS. Bằng cách này, Pebble sẽ đem đến cho người sử dụng phần nhiều thông tin quan trọng, bên cạnh báo giờ nó còn giúp người sử dụng vào mạng, nhắn tin, truyền nhận email...  Nói ngắn gọn hơn, Pebble không chỉ là 1 chiếc đồng hồ mà còn là 1 cố gắng rất to của khoa học nhằm đưa công nghệ hiện đại nhất lên cổ tay, giúp con người thực hiện được nhiều chức năng mà không phải đi xa hay dùng tới các thiết bị điện tử đắt tiền khác.

Cảm biến răng

Rất nhiều người, đặc biệt những người trẻ tuổi thường ngại đi khám nha khoa, đơn thuần là vì nó gây đau. Theo 1 nghiên cứu mang tên Dental Fear and Anxiety (Nỗi lo đi khám răng lợi) thì chính nỗi sợ này đã làm cho sự hợp tác giữa giới nha khoa và bệnh nhân kém hiệu quả, giảm thiểu kết quả điều trị. Nhằm giảm thiểu sự cố này, các chuyên gia ở ĐH Princeton và ĐH Tufts đã  hợp tác nghiên cứu cho ra đời một loại cảm biến răng siêu mỏng (sensor), lắp trên răng làm nhiệm vụ cảnh báo sớm các dấu hiệu mắc bệnh như sâu răng do khuẩn, mảng bựa tích dày hoặc bất kỳ dấu hiệu nhiễm khuẩn nào cho tới bệnh hốc chân răng, sâu răng nên sẽ giúp mọi người phòng ngừa và hạn chế việc phải tới bộ phận khám nha khoa như trước đây.

 Nam Bắc Giang

 (Theo LV, 4/2013)

Loãng xương ở nam giới trung niên chớ xem thường

Loãng xương là một bệnh phổ biến tại người lớn tuổi, dễ để lại biến chứng nặng nề như: gãy cổ xương đùi, xẹp đốt sống... điều trị kéo dài, tốn kém, gánh nặng cho gia đình và xã hội. phòng bệnh bằng việc duy trì 1 chế độ ăn uống, sinh hoạt, luyện tập, vận động đầy đủ.

Ước đoán có khoảng 30% số nam giới tại giai đoạn trung niên có nguy cơ bị loãng xương do có liên lạc mật thiết đến sự suy giảm nội tiết tố sinh dục nam.

Quá trình phát triển của xương, các nhân tố quan trọng để kết lại thành xương như: calcium, phospho, natri, khoáng chất, vitamin D và sợi collagen.

Loãng xương tại nam giới trung niên chớ xem thường 1

Bên cạnh đó, vai trò nội tiết cũng vô cùng quan trọng. Ngày nay khoa học đã chứng minh rằng: testosterone có vai trò rất thiết yếu trong quy trình biệt hóa giới tính và tác động tới sự phát triển của xương. Testosterone có tác dụng làm nâng cao hàm lượng muối canxi trong xương, nâng cao độ dày và chắc của xương. Testosterone còn có tác động làm cho đĩa sinh trưởng của xương liên kết với thân xương, yếu tố này giúp nâng cao chiều cao tối đa của thời kỳ thanh thiếu niên. Đến thời kỳ mãn dục nam, lượng testosterone giảm xuống, đây là nguyên nhân phổ biến nhất gây loãng xương tại nam giới. Tuy nhiên các nhà khoa học vẫn chưa lý giải được là  xương phát triển thì cần trực tiếp số lượng bao nhiêu testosterone để phát triển.

Cơ thể nam giới cũng cần 1 lượng nhỏ estrogen, và estrogen có tác dụng bảo vệ mật độ xương nam cũng như nữ, và có sự chuyển đổi testosteron thành estrogen là để xây dựng khối lượng xương.

Về loãng xương tại nam giới thời kỳ mãn dục, ngoài nguyên nhân do nội tiết tố sinh dục giảm, còn do: ít vận động, chính sách ăn thiếu canxi; bệnh đái tháo đường, viêm đa khớp dạng thấp, rối loạn tiêu hóa gây giảm hấp thu canxi; do phải sử dụng trong khoảng thời gian dài 1 số thuốc để điều trị, như: nhóm corticosteroid, thuốc chống động kinh, thuốc chữa bệnh đái tháo đường như insulin, thuốc chống đông máu như Heparin… Các thuốc trên đã  làm tăng bài tiết canxi của cơ thể qua thận và làm tăng quy trình hủy xương…

Loãng xương thường diễn biến âm thầm nên thường ít được quan tâm. Lúc đầu người bệnh không cảm thấy khó chịu, không có dấu hiệu nào rõ ràng, có chăng chỉ là 1 vài triệu chứng đau nhẹ thoáng qua hay nhức - mỏi không cố định, có lúc rất mơ hồ, có thể tại cột sống thắt lưng, ở các chi hay các đầu xương...  Càng vào sau, khi khối lượng xương bị mất càng ngày càng nhiều, các triệu chứng đau nhức nhiều hơn, rõ ràng hơn, tập trung nhiều hơn tại các xương có tính chất chịu lực của cơ thể như cột sống thắt lưng, khớp háng, khớp gối; đau tăng vào đêm, nghỉ ngơi không hết đau. Các triệu chứng toàn thân thường gặp là luôn có cảm giác lạnh hoặc ớn lạnh, hay bị chuột rút.

Để cảnh giác với loãng xương, nam giới nên thay đổi lối sống, bằng cách duy trì chính sách ăn hợp lý, đầy đủ chất, đủ lượng canxi, vitamin D, K, magiê, phospho để giúp việc chuyển tải canxi vào xương. Cần phơi nắng lúc sáng sớm để có không ít vitamin D từ nguồn ánh sáng mặt trời. Dùng nhiều cải trắng, chuối, bông cải xanh.

Nam giới cần duy trì chính sách vận động bằng tập luyện thể dục - thể thao nhằm nâng cao sức mạnh và bảo toàn khối lượng cho xương, nên chọn các môn tập thích hợp với sức khỏe, thời gian và điều kiện kinh tế; bỏ rượu bia, thuốc lá. Khi đã có dấu hiệu khối lượng xương thấp hay loãng xương thì cần bổ sung canxi.

Khi có dấu hiệu bệnh lý cần điều trị sớm bằng các thuốc thuộc nhóm Bisphosphonate như Alendronate  với tên biệt dược là Fosamax hay Risedronate, Zoledronic… có tác dụng tốt để ngừa gãy xương nhất là đốt sống và cổ xương đùi. Cần khám sức khỏe và đo mật độ xương định kỳ, rất tốt đặc biệt 6 tháng/lần. Cần bổ sung lượng hoóc-môn sinh dục nam để điều trị cũng như phòng ngừa loãng xương bằng testosrerone với biệt dược là Andriol, Sustanon… Tuy nhiên, việc sử dụng nội tiết để điều trị này cần được theo dõi chặt chẽ bởi bác sĩ chuyên khoa.

BS. TRẦN GIANG

Sai lầm tai hại cần tránh khi ăn kiêng

Hầu hết mọi người đều nghĩ rắng, muốn giảm béo là phải ăn kiêng. Tuy nhiên, đó hoàn toàn là sai lầm vì chế độ ăn kiêng sẽ khiến bạn không khỏe mạnh. Theo các chuyên gia người ăn kiêng càng cần phải ăn uống đầy đủ nhóm dinh dưỡng để phục vụ rất tốt nhu cầu công việc hàng ngày.
Nếu bạn không chú ý đến chính sách ăn uống cân bằng hoặc không ăn đúng loại thực phẩm, bạn không thể có đủ dinh dưỡng và không thể giúp bạn giảm cân được.

Nhiều người ăn kiêng nghĩ rằng thức ăn không có thịt hoặc cá sẽ có tác dụng giảm cân. Nhưng chỉ có thực phẩm tự nhiên hoặc thực phẩm chế biến nhỏ mới có thể giúp cơ thể khỏe mạnh. Ăn kiêng phải thích hợp với các loại thực phẩm để có được chất dinh dưỡng toàn diện. Nếu không, chính sách ăn kiêng có thể không mang lại sức khoẻ cho bạn.

 

Dưới đây là một số sai lầm lúc ăn kiêng:

 

Không ăn thịt, cáĐây là sai lầm, nhiều người ăn kiêng nghĩ rằng thực phẩm không làm từ thịt động vật có giá trị sức khỏe cao. Nhưng trong thực tế, nhiều loại thực phẩm thực vật là thực phẩm chế biến, làm bằng gạo cao, bột mì, thêm về một số lượng to dầu, đường và muối.

Nhiêu người thích các loại thực phẩm thực vật, 1 số sản phẩm thậm chí còn Tiến hành dùng "kem thực vật", "mỡ thực vật" như một loại thực phẩm thay thế. Tuy nhiên, các loại thực phẩm này còn tồi tệ hơn dầu động vật vì nó có chứa "dầu thực vật hydro hóa" trong đó có chứa "axit béo", làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và bệnh tiểu đường và làm tổn hại đến não.

Ăn kiêng bằng trái cây
Thứ hai, nhiều người ăn kiêng bằng trái cây. Thông thường họ ăn trái cây sau mỗi bữa ăn nhưng kết quả là không giúp họ giảm cân vì Trong trái cây có đường, nếu bạn ăn một nửa cân trái cây, bạn nên giảm số lượng các thực phẩm cốt yếu để kiểm soát lượng calo. Bên cạnh đó, bạn sẽ nhận thấy lượng sữa chua hoặc phô mai. Cả 2 làm cho bạn nâng cao cân nhiều.

 

Sai lầm tai hại cần tránh lúc ăn kiêng 1Ảnh minh họa

Chủ yếu ăn rau

Một số người ăn kiêng nghĩ rằng đó là lành mạnh lúc ăn rau sống. Họ thích salad và các món ăn, lạnh và trộn với nước sốt. Trong thực tế, nhiều chất dinh dưỡng trong rau cần được được nấu chín với dầu để cơ thể có thể hấp thụ tốt hơn, chẳng hạn như vitamin K, carotene và lycopene. Vitamin K là rất tốt cho xương; biến carotene thành vitamin A và lycopene là 1 thành phần nhu yếu chống oxy hóa và ngăn ngừa bệnh ung thư.

Ăn kiêng quá mức

Các chất dinh dưỡng của rau là rất quan trọng. Rau đem tới cho họ với vitamin C, carotene, sắt, canxi, axit folic, vitamin B 2. Và do đó, họ có thể chọn 1 số loại rau giàu chất dinh dưỡng trên. Các loại rau lá màu xanh lá cây là sự lựa chọn rất tốt nhất như cải bắp cải, bông cải xanh, rau bina, rau cải trắng .... Để tăng protein nên ăn nấm và đậu, đó là sự lựa chọn rất tốt cho cơ thể. Nếu chỉ yêu cái gọi là "rau hạ lipid" như dưa chuột, cà chua, bi xanh và mướp đắng thì đó  không phải dễ dàng để có được đủ chất dinh dưỡng.

Thiếu vitamin 
Chế độ ăn kiêng thường thiếu vitamin B12 cho nó không tồn tại trong thực phẩm thực vật, duy nhất trong thực phẩm lên men. Bên cạnh đó, ăn kiêng có thể thiếu kẽm và sắt cao trong thực phẩm lên men.

Thiếu vitamin D
Vitamin D chủ yếu tồn tại trong gan động vật, cá, lòng đỏ và chất béo bơ, và do đó, người ăn kiêng có thể thiếu nó. Vì vậy, họ cần phải giúp cơ thể có thể tổng hợp vitamin D bởi các tia cực tím. Vì vậy, theo lời khuyên của các chuyên gia người ăn kiêng nên tập thể dục liên tục hơn.
Không có thời gian nấu ăn
Đa số những kiểu ăn kiêng đều sử dụng những thực phẩm tươi, được chế biến ở nhà. Điều này đòi hỏi người ăn kiêng cần nhiều thời gian cho việc lên kế hoạch cho bữa ăn, đi mua và  thời gian chuẩn bị thực phẩm. Vì vậy, 1 số người đã tìm tới thức ăn nhanh và thức ăn làm sẵn dành cho người cần giảm cân. Do vậy, giảm thiểu của thói quen này là bạn khó kiểm soát được thành phần của các thức ăn trong thức ăn sẵn.

 

TheoVnMedia/Lookchem

Ăn nhiều rau cũng hại

Rau chứa nhiều các nguyên tố vitamin, khoáng chất, chất xơ thực vật. Nhưng hấp thụ quá nhiều rau sẽ có rất nhiều tác hại. .

Rau quả chứa các loại vitamin, khoáng chất, chất xơ và chất dinh dưỡng khác. Ăn một lượng rau vừa phải có thể thúc đẩy nhu động đường ruột và đi tiêu, phân phối cho cơ thể những vi chất dinh dưỡng cần thiết, có tác dụng chống oxy hóa và bảo đảm các ứng dụng thông thường của các cơ quan trong cơ thể con người. Tuy nhiên, ăn quá nhiều rau quả cũng có thể mang lại mối hiểm nguy sức khỏe con người.

Khó tiêu

Ăn nhiều rau cũng hại 1Ăn nhiều rau xanh gây hại cho sức khỏe

Nếu bạn ăn nhiều rau quả có chứa hàm lượng xơ cao, nó có thể thuận tiện dẫn tới chứng khó tiêu. Những loại rau này bao gồm cần tây, măng… Do đó, bệnh nhân bị bệnh đường tiêu hóa không nên ăn quá nhiều rau. Hơn nữa, chất xơ cũng có thể gây chảy máu dạ dày ở bệnh nhân xơ gan, làm bệnh thêm trầm trọng.

Ảnh hưởng sự phát triển trí thông minh và xương của trẻ em

Trẻ ăn quá nhiều rau sẽ gây cản trở sự hấp thu canxi và kẽm trong cơ thể, làm ảnh hưởng đến sự phát triển thông minh và sự phát triển xương. Điều này đặc biệt có hại cho phụ nữ mang thai và trẻ em trong giai đoạn nâng cao trưởng và phát triển.

Gây sỏi

Một số loại rau như rau chân vịt, cần tây, cà chua, chứa một số lượng to axit oxalic, khi kết hợp với canxi có trong các loại thực phẩm khác sẽ kết thành sỏi canxi oxalate. Đây là một trong những lý tại sao những người phụ nữ ăn chay dễ bị sỏi. Hơn nữa, đối với những người đã bị sỏi, ăn quá nhiều rau sẽ làm tình trạng của bệnh trầm trọng thêm. Lý do là vì rất nhiều các loại rau có tính kiềm trong tự nhiên. Ăn nhiều thực phẩm có tính kiềm trong chế độ ăn hàng ngày có thể tạo thành sỏi nhiều hơn và khiến cho nó khó được thải ra khỏi cơ thể.

Suy dinh dưỡng và thiếu máu, thiếu sắt

Để giảm cân và giữ thân hình eo thon, nhiều phụ nữ có xu thế ăn nhiều rau quả và giảm lượng thịt, cá trong chế độ ăn hàng ngày của họ. Điều này ảnh hưởng lớn đến sự hấp thụ axit béo thiết yếu và protein chất lượng trong cơ thể, sẽ dẫn đến suy dinh dưỡng.

Phụ nữ nhất là còn chú ý tránh tình trạng thiếu máu do thiếu sắt hoặc thiếu canxi vì ăn quá nhiều món ăn chay gây nên. Nếu phụ nữ trong thời kỳ mang thai không Quan tâm dinh dưỡng, sẽ không mang đến đủ protein cho thai nhi, số tế bào não của thai giảm, ảnh hưởng tới trí lực của trẻ sau này. Vì thế ví dụ sản phụ chỉ ăn rau thì thai nhi sau này sẽ không đủ trọng lượng, sức đề kháng kém.

Đối với những người bình thường, cần căn cứ vào thể trạng cũng như thị hiếu của bản thân mà có cách lựa chọn phương pháp ăn uống hợp lý để đảm bảo sức khỏe.

Theo

VnMedia.vn

Điều trị loãng xương

Loãng xương là hậu quả của sự phá vỡ cân bằng thông thường của 2 quá trình tạo xương và hủy xương, quy trình tạo xương suy giảm trong lúc quá trình hủy xương tăng, thậm chí vẫn tại mức bình thường. Nguyên nhân của hiện tượng này có thể do: vấn đề nâng cao tuổi tác, hormon sinh dục nữ giảm, hormon cận giáp, dinh dưỡng thiếu, suy giảm miễn dịch. Loãng xương có thể là nguyên do gây nên các biến chứng nguy hiểm khác nên cần phải điều trị kịp thời.

Biểu hiện lâm sàng của loãng xương chỉ xuất hiện lúc trọng lượng xương giảm trên 30%. Sự xuất hiện từ từ tự nhiên hoặc sau 1 chấn thương, đôi khi tình cờ chụp Xquang mà thấy. Biểu hiện lâm sàng là một hội chứng cột sống: đau và hạn chế vận động cột sống, cánh chậu, bả vai. Đau làm cho cột sống cứng đờ, co thắt các cơ cạnh sống, gõ ấn về các gai sau đốt sống đau nâng cao và lan tỏa. Đau tăng khi vận động, đứng, ngồi lâu, đau giảm khi nghỉ ngơi. Tái phát từng đợt, thường sau khi vận động nhiều, chấn thương nhẹ, thay đổi thời tiết. Đôi khi có hội chứng rễ thần kinh biểu hiện bằng đau thần kinh hông to, đau thần kinh liên sườn vùng ngực bụng. Cột sống giảm dần chiều cao, biến dạng đường cong sinh lý dẫn đến gù vùng lưng hay thắt lưng, chiều cao cơ thể giảm đi rõ rệt so với khi còn trẻ tuổi. Xương dễ gãy, đôi lúc chỉ một chấn thương nhẹ cũng làm gãy cổ xương đùi, gãy đầu dưới xương quay, gãy lún đốt sống.

Qua phim chụp Xquang sẽ nhận thấy hình ảnh đốt sống bị đóng khung, hình ảnh lún đốt sống. Ngoài ra còn có thể phát hiện loãng xương bằng phương pháp đo mật độ xương bằng chỉ số T score.

Điều trị loãng xương 1

Vai trò của canxi

Việc điều trị loãng xương cần căn cứ tình trạng bệnh cụ thể. Tuy nhiên phải lưu ý tới các nhân tố tham dự chuyển hóa canxi và nâng cao cường canxi cho cơ thể. Canxi là nguyên tố hoạt động nhất trong cơ thể con người, chiếm 1,5-2% trọng lượng cơ thể, trong đó 99% tồn ở trong xương, răng, móng, duy nhất 1% tồn tại trong máu, tế bào và ngoại bào. Trong cơ thể, canxi đóng vai trò truyền dẫn thông tin, tham dự về đa số các hoạt động của cơ thể và của tế bào. Nồng độ canxi trong máu ví dụ giảm sẽ bị chuột rút, chân tay co giật, ngược lại nếu như nâng cao quá thì sẽ bị loạn nhịp tim... Khi cơ thể thiếu canxi, hệ thống tự điều chỉnh sẽ điều tiết để duy trì sự ổn định của nồng độ canxi máu.

Các nhân tố tham dự chuyển hóa canxi

Hormon cận giáp: làm tăng hấp thu canxi tại ruột, tăng vận chuyển canxi từ xương vào máu. Do đó làm nâng cao nồng độ canxi trong máu và tham dự quy trình gây loãng xương.

Hormon tuyến giáp là hormon hạ canxi máu, ức chế tiêu xương đồng thời làm tăng tạo xương, tác dụng ngược với hormon cận giáp.

Vitamin D có hai loại: loại tổng hợp (ergocalciferol - D2) và loại tự nhiên (cholecalciferol - D3). Chất calcitrol tạo ra trong quá trình chuyển hóa vitamin D là chất có hoạt tính sinh học mạnh, có tác dụng làm nâng cao hấp thu canxi ở ruột và tăng gắn canxi vào xương.

Hormon sinh dục: hormon sinh dục nam có tác dụng đồng hóa, nâng cao đồng hóa protid, giữa nitơ và các muỗi K+, Na+, phospho, Ca++... nên làm phát triển cơ xương; hormon sinh dục nữ giúp nâng cao hấp thu và tái hấp thu canxi.

Glucocorticoid của vỏ thượng thận có tác dụng làm tăng thải trừ canxi và phospho qua nước tiểu, giảm hấp thu Ca++ ở ruột do đối kháng với vitamin D, bởi thế có xu thế làm giảm Ca++ trong cơ thể và có thể dẫn đến cường cận giáp trạng và làm xương bị thưa thêm.

Dự phòng và điều trị loãng xương

Thuốc giảm đau chỉ nên sử dụng lúc đau nhiều, nên sử dụng nhóm non-steroid, không dùng corticoid. Ngoài ra còn có thể bổ sung canxi đường uống, vitamin D2 hoặc D3. Kết hợp dùng nội tiết tố sinh dục:

Loãng xương tuổi mãn kinh, typ I: cho phối hợp cả oestrogen và progesteron để tránh tai biến ung thư tử cung.

Loãng xương người già, typ II: dùng testosteron  hoặc durabulin (nandrolone phenylpropionat).

Bên cạnh đó, có thể sử dụng các thuốc làm tăng khối lượng xương: thyrocalcitonin (miacalcic, calcitar, calsyn, cibacalcin - là hoạt chất calcitonin cá hồi tổng hợp), biphosphonate; các loại cao xương, cao toàn tính động vật, các loại sữa gầy giàu canxi.

Bệnh nhân cũng cần có một chế độ ăn bảo đảm lượng canxi từ 0,8-1g/ngày, chế độ vận động hợp lý, giảm thiểu chất kích thích (rượu bia, thuốc lá...).

Phương pháp vật lý trị liệu để giảm đau, nhất là dùng hồng ngoại và tử ngoại để nâng cao cường hấp thu vitamin D, từ trường để chống loãng xương.

Bệnh nhân cần tăng cường vận động thích hợp với khả năng. Kết hợp uống canxi (0,5-1,5g/ngày) và vitamin D kéo dài; sử dụng nội tiết tố kéo dài sau tuổi mãn kinh: microfolin (ethinylestradiol), progesteron tùy theo từng thời điểm.      

BS. Mai Trung Dũng

Những bài thuốc, món ăn phòng và điều trị cúm

Những ngày này, bệnh cúm đang là vấn đề gây chú ý và lo lắng cho nhiều người dân. Đông y có các bài thuốc, món ăn dùng điều trị và phòng ngừa cúm.

Bệnh cúm cũng là cảm mạo nhưng bệnh khởi phát đột ngột, sốt cao, nhức đầu như búa bổ, đau nhức toàn thân (nhức khớp, đau cơ), cổ họng khô rát. Bệnh cúm lây nhiễm rất nhanh, tạo thành dịch bệnh nguy hiểm.

Những bài thuốc, món ăn phòng và điều trị cúm 1

Một số bài thuốc Nam chữa bệnh cúm

- Lá húng chanh 10g, bạc hà 8g, kinh giới 10g, cối xay 12g, bạch chỉ 6g, kim ngân hoa 12g, cam thảo đất 12g.

Nấu với 750ml nước, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn.

- Rau má 12g, hương nhu 10g, đậu ván (sao) 12g, bồ công anh 12g, kim ngân hoa 12g, kinh giới 10g, bạc hà 8g, lá dâu tằm 8g, cam thảo đất 10g, lức dây (cúc tần) 10g.

Nấu với 750ml nước, sắc còn 300ml, chia hai lần uống trước bữa ăn.

- Hoàng kỳ 16 - 30g, cam thảo bắc 4 - 6g. Đây đều là các thuốc có tác dụng tăng cường chức năng miễn dịch của cơ thể.

Dùng 2 vị này sắc cho bệnh nhân uống, kết hợp với uống Tamiflu theo phác đồ của Bộ Y tế.

Khảo sát sắp 100 trường hợp đều thấy bệnh nhân nâng cao được thể trạng, sức đề kháng tăng, hạ sốt nhanh, số ngày điều trị giảm, có chuyển biến sức khỏe tốt, không có trường hợp bệnh chuyển sang chiều hướng nặng (theo Cục Quân y, Bộ Quốc bộ phận ).

Một số món ăn nên sử dụng khi có dịch cúm hoặc lúc bị cúm

Các món ăn này đều có tác dụng tăng sức đề kháng cho cơ thể.

Nước tỏi - nghệ:

Nguyên liệu: củ tỏi 30 - 50g, củ nghệ 10 - 20g, đường vừa đủ.

Cách làm: tỏi bóc vỏ, củ nghệ gọt vỏ, rửa sạch. Hai thứ giã nhỏ, hòa với ít nước sôi, lọc lấy 50 - 100ml nước, thêm ít đường về quậy đều, chia 2 - 3 lần cho uống vào khi không no, không đói quá.

Có thể nấu gạo tẻ 50 - 100g thành cháo nhừ, cho nước tỏi - nghệ về nấu sôi lại là được. Chia hai - 3 lần cho ăn vào khi đói bụng.

Canh cải soong - thịt heo:

Nguyên liệu: cải soong 100 - 150g, kinh giới 20 - 30g, gừng tươi 3 lát mỏng, thịt heo nạc 50 - 100g. Gia vị: nước mắm, muối, bột nêm.

Cách làm: rau cải soong nhặt kỹ rửa sạch, cắt ngắn. Rau kinh giới rửa sạch, cắt nhỏ. Gừng rửa sạch, giã nát. Thịt heo nạc rửa sạch, xắt miếng mỏng, cho vào nước lạnh đun sôi, hớt bỏ bọt, nêm nếm gia vị vừa ăn. Cho rau vào đun sôi lại, bắc ra ngay. Múc ra bát, ăn nóng trong bữa cơm hoặc ăn không về lúc đói bụng.

Canh đậu hũ chua cay:

Nguyên liệu: đậu hũ 150g, mộc nhĩ 10g, củ cải 50g, cà rốt 50g, giấm 20ml, muối, bột ngọt, hành, tiêu, dầu mè.

Đậu hũ cắt sợi vừa, dùng nước sôi luộc sơ, vớt ra; mộc nhĩ ngâm nở, củ cải, cà rốt, toàn bộ gọt vỏ, rửa sạch, đều cắt sợi.

Cách làm: đun sôi 150ml nước, cho mộc nhĩ, củ cải, cà rốt về trước, đun tiếp, thêm muối, bột ngọt và  giấm vào, sốt cho sền sệt mới cho đậu hũ vào, nấu chín, thêm hành, tiêu, dầu mè vào. Dùng ăn nóng trong bữa cơm.

Cháo vịt:

Nguyên liệu: thịt vịt 150g, 100g gạo nếp, một ít rượu trắng, muối.

Cách làm: cắt thịt vịt ra thành hột lựu, gạo nếp cho nước về nấu cháo, sau đó cho thịt vịt, một chút rượu, muối vào nấu chín.

Cháo ý dĩ (bo bo), bông atisô, đậu xanh:

Nguyên liệu: ý dĩ 100g, đậu xanh 50g, bông atisô 150g, đường cát trắng.

Cách làm: rửa sạch bo bo và đậu xanh, tách bông atisô thành từng cánh, lột bỏ lớp màng bên trong, rửa sạch. Cho 1 lượng nước vừa phải vào nồi, cho đậu xanh vào trước, nấu chín, tiếp đó cho thêm bo bo vào nấu sắp chín thì cho thêm bông atisô vào, dùng lửa nhỏ nấu thành cháo, cho thêm ít đường là ăn được.

Súp ngân nhĩ:

Nguyên liệu: ngân nhĩ (nấm tuyết) 5g, đường phèn 50g.

Cách làm: ngâm ngân nhĩ trong nước ấm 30 phút, đợi lúc nở đều, cắt bỏ phần cuống, gặt đi tạp chất, đem xé thành từng miếng nhỏ, cho về nồi sạch, thêm lượng nước vừa phải, dùng lửa lớn đun sôi, hầm với lửa nhỏ hai - 3 tiếng, cho đường phèn vào hầm tới khi ngân nhĩ nát ra mới thôi.

Nấm hương (nấm đông cô) ninh xà lách:

Nguyên liệu: nấm hương 10g, xà lách (hoặc xà lách soong) 100g, hành thơm một cọng, gừng 20g, dầu hào 2 thìa, muối, đường, bột năng.

Cách làm: nấm hương cắt bỏ cuống, rửa sạch, dùng dầu phi thơm hành, gừng rồi vớt ra, sử dụng dầu còn lại xào nấm tươi, rồi cho dầu hào, đường, muối vào đun sôi, sau đó dùng lửa nhỏ nấu cho thấm gia vị.

Dùng bột làm sệt nước chấm, xà lách cắt miếng to, rửa sạch rồi sử dụng dầu xào chín, cho gia vị vào, xào xong ráo nước xếp về mâm rồi cho nấm tươi xào lên trên.

 

 

Những ngày có lưu hành các dịch cúm nguy hiểm như H5N1, chúng ta cần: làm việc, nghỉ ngơi hợp lý; chú ý ăn các loại thực phẩm nâng cao cường sức đề kháng như: tỏi, hành tím, đinh hương, nghệ, gừng, mật ong cùng các loại trái cây giàu khoáng chất vitamin. Cũng cần sử dụng các loại thực phẩm giàu protein gồm: thịt heo, thịt bò, thịt gà…

 

LƯONG Y ĐINH CÔNG BẢY