Nếu như xuất huyết não luôn luôn được dự bộ phận tại những bệnh nhân có tăng huyết áp, xơ vữa động mạch thì xuất huyết não do vỡ dị dạng động - tĩnh mạch (Arteriovenous malformation), trong đại phần lớn các trường hợp, chỉ được biết đến nguyên do lúc “quả mìn” đã nổ.
Bình thường, máu từ động mạch phải qua 1 hệ thống mao mạch dày đặc, làm nhiệm vụ thảo luận chất và ôxy trước khi nối thông với hệ tĩnh mạch để trở về tim. Dị dạng động - tĩnh mạch diễn ra lúc động mạch nối thông trực tiếp với tĩnh mạch mà không có hệ thống mao mạch, vì vậy còn được gọi là thông động - tĩnh mạch (arteriovenous fistule). Đoạn tiếp nối này tạo thành những búi mạch, phồng to, thành giãn mỏng, rất dễ vỡ gây xuất huyết ở chỗ.
Dị dạng động - tĩnh mạch não là bệnh bẩm sinh, hình thành một đám rối mạch máu bất thường trong não, nối thông động mạch và tĩnh mạch não, không đi qua hệ mao mạch bình thường của não, không cấp máu cho nhu mô não, khi vỡ gây đột quỵ chảy máu não.
Bệnh thường không có triệu chứng
Dị dạng động - tĩnh mạch não phát triển theo thời gian, tồn ở không triệu chứng trong nhiều năm và được phát hiện cốt yếu tại độ tuổi 45 trở xuống trong 3 tình huống: chảy máu não (50 - 60%), đau đầu, động kinh (40 - 45%), hoặc tình cờ (5 - 10%). Một số bệnh nhân được phát hiện bệnh khá muộn (60 - 70 tuổi).
Dị dạng động - tĩnh mạch não phát hiện qua chụp mạch não.Có tới 80% dị dạng động - tĩnh mạch não là không biểu hiện triệu chứng. Chẩn đoán nguyên nhân tử vong chỉ rõ sau lúc mổ tử thi trong nhiều trường hợp. 2/3 các ca dị dạng động - tĩnh mạch não biểu hiện ban đầu bằng triệu chứng xuất huyết não (gây đột quỵ chảy máu não): bệnh nhân đột nhiên cảm thấy đau đầu dữ dội; mắt mờ hoặc mất thị lực; buồn nôn, nôn; liệt các dây thần kinh sọ, liệt chi; rối loạn ý thức, hôn mê, có trường hợp biểu hiện co cứng mất vỏ hoặc cơn duỗi cứng mất não, hôn mê sâu, đồng tử giãn to, thở ngáy... nếu khối xuất huyết não to hoặc có vị trí tại những nơi cấp thiết trong não. Một số các triệu chứng khác lúc búi mạch dị dạng chưa vỡ bao gồm co giật kiểu động kinh (46%); đau đầu (34%); các thiếu sót thần kinh (21%) do hiệu ứng choán chỗ (khi búi phồng phát triển quá lớn chèn ép hoặc gây phù nề tổ chức chung quanh) và có thể có thiếu máu cục bộ não khu vực cận búi phồng do hiện tượng “ăn cắp” máu của búi phồng (máu dồn đến búi phồng quá nhiều dẫn đến thiếu máu nuôi khu vực khác).
Xác định dị dạng động - tĩnh mạch não
Chẩn đoán dị dạng động - tĩnh mạch não dựa vào các biểu hiện lâm sàng có tính chất gợi ý như đau đầu dữ dội, co giật không rõ nguyên do hoặc muộn hơn, xuất huyết trong nhu mô não tại người trẻ, không có tiền căn tăng huyết áp... Các đối tượng này sẽ được chỉ định chụp cộng hưởng từ não và mạch máu não (MRI và MRA), chụp cắt lớp đa dãy (MSCT) hoặc chụp mạch não số hóa xóa nền (DSA) để xác định vị trí và kích thước búi phồng của dị dạng động tĩnh mạch não.
Phương pháp xử trí
Khi đã xác định được bệnh nhân có dị dạng động - tĩnh mạch não, các phương pháp điều trị triệt căn sẽ được đặt ra. Các phương pháp này bao gồm phẫu thuật mở hộp sọ, về vùng có dị dạng động - tĩnh mạch, kẹp và cắt bỏ búi mạch dị dạng. Phương pháp chiếu tia xạ (phẫu thuật tia xạ) vào vùng có búi mạch dị dạng nhiều lần làm búi mạch teo nhỏ, xơ hóa. Thứ ba là phương pháp can thiệp mạch qua da: dùng 1 ống thông đi từ động mạch đùi lên động mạch não, tới chỗ búi mạch dị dạng sau đó dùng chất gây tắc là keo gây tắc mạch búi phồng. Chỉ định nút mạch đối với những búi phồng có kích thước nhỏ hơn 1cm và được cấp máu bởi 1 động mạch duy nhất. Cũng có thể phối hợp các phương pháp nói trên để nâng cao hiệu quả điều trị, ví dụ như gây tắc làm nhỏ búi phồng tạo điều kiện cho phẫu thuật thuận tiện hơn hoặc chiếu tia xạ gây xơ hóa búi phồng trước lúc can thiệp nút mạch. Tùy tình trạng toàn thân và tổn thương của mỗi bệnh nhân, phương pháp và kế hoạch điều trị sẽ được chọn lựa một cách phù hợp nhất. Nếu là dị dạng động - tĩnh mạch não chưa vỡ, cần nằm viện 3 - 5 ngày sau điều trị nút mạch. Ngược lại, nếu là dị dạng động tĩnh mạch não đã vỡ: cần nằm viện 7 - 14 ngày, thậm chí lâu hơn để điều trị và theo dõi các rối loạn do chảy máu gây ra.
Sau khi can thiệp thành công, bệnh nhân cần phải điều trị phục hồi chức năng và tư vấn cẩn thận trước khi trở vào cộng đồng.
Khi búi phình đã bị vỡ gây xuất huyết trong nhu mô não, các biện pháp hồi sức tích cực phải được tiến hành: đảm bảo hô hấp, tuần hoàn, nước điện giải, thăng bằng kiềm toan, chống nâng cao áp lực nội sọ, kiểm soát huyết áp. Khi bệnh nhân đã ổn định, xét chỉ định chụp mạch xác định búi phồng và tiến hành phẫu thuật hoặc nút mạch.
Nói chung, việc cần làm là xác định được bệnh nhân có dị dạng động tĩnh mạch não khi búi phình chưa vỡ tại các đối tượng có yếu tố nguy cơ. Một khi búi phình đã vỡ gây xuất huyết trong não, việc điều trị sẽ gặp nhiều khó khăn và nếu như bệnh nhân không tử vong thì cũng sống với những di chứng nặng nề vào thần kinh.
TS. BS. Vũ Đức Định
Tỷ lệ mắc dị dạng động - tĩnh mạch não ước tính khoảng từ 0,01 - 0,52% dân số. Nguyên nhân của loại tổn thương này được cho là do khiếm khuyết bẩm sinh mặc dù có 1 số trường hợp dị dạng động - tĩnh mạch có liên quan tới các bệnh lý ví dụ như bệnh Osler - Weber - Rendu hay hội chứng Sturge - Weber. Bệnh không có tính chất gia đình vì đại đa số các trường hợp mắc không có liên quan tới tiền sử huyết thống. Xuất huyết não do vỡ dị dạng động - tĩnh mạch não chiếm khoảng 2% tổng số các trường hợp xuất huyết não nói chung. Cứ 100 người có dị dạng động - tĩnh mạch não thì có từ 42 - 72 người bị xuất huyết não do búi phồng này vỡ. Ðây là biến chứng nặng nề nhất của bệnh. Lần xuất huyết não trước tiên do vỡ dị dạng động tĩnh mạch não thường gặp ở tuổi 20 - 40. |